ĐỨC GIÊSU CHỮA BỆNH
VÀ NUÔI ĐÁM ĐÔNG DÂN CHÚNG
(Mátthêu 14,13-21 – CN XVIII TN - A)
Lm
PX Vũ Phan Long, ofm
1.- Ngữ
cảnh
Chúng ta nên đặt đoạn văn này vào trong ngữ
cảnh của nó là toàn khối từ cuối chương
13 đến chương 17. Đọc khối này, chúng ta
nhận ra những ý tưởng quan trọng:
1) Chương 13 cho hiểu rằng Nước Trời
đang tăng trưởng và bất cứ người
nào hiểu rằng mình được kêu gọi đi vào
đấy, thì phải lựa chọn dứt khoát. Kể từ
nay, chúng ta thấy cộng đoàn của Đức Giêsu xuất
hiện rõ nét dần, được củng cố dần,
mở ra dần với đức tin (x. 14,33; 16,16), đào
sâu dần mầu nhiệm Đức Giêsu. Chính là nơi cộng
đoàn này mà người ta nhận ra Nước Thiên Chúa đang
hiện diện và ngày càng rõ nét. Chúng ta có thể đặt
tên cho toàn khối ch. 13-17 này: “Tiến tới việc loan
báo Giáo Hội”hoặc “Giáo Hội, hoa quả đầu
mùa của Nước Trời” hoặc “Hành trình đức
tin trong Giáo hội”, bởi vì qua các chương này, Mt
đề cập đến việc đào tạo tiệm
tiến cộng đoàn Giáo Hội.
2) Khối này mở ra với việc dân Nadarét từ
khước Đức Giêsu (13,53-58) và kết thúc với
câu chuyện cho thấy Phêrô được Đức Giêsu
cho gắn bó với Người (17,24-27). Xuất hiện
gương mặt đe dọa của vua Hêrôđê, người
đã giết Gioan Tẩy Giả (14,13). Nhóm Pharisêu ngày càng tỏ
rõ thái độ hiềm thù đối với Đức
Giêsu (15,1tt.12; 16,1.4). Những thái độ đe dọa thù
nghịch khiến Đức Giêsu lo sợ, Người rút
lui về những nơi an toàn hơn hoặc tách biệt
hơn (14,13; 15,21).
3) Toàn khối này được xây dựng quanh hai
điểm: đức tin và hiểu biết:
- Tác giả nói đến những người
kém tin trong câu truyện Phêrô đi trên mặt nước
(14,31) và câu truyện các môn đệ bàn tán về việc
quên bánh (16,8). Trong câu truyện Đức Giêsu chữa đứa
trẻ bị kinh phong, có một lời than: “Ôi thế hệ
cứng lòng không chịu tin …” (17,17). Mt
là tác giả duy nhất xác định rằng các môn đệ
không chữa lành được em bé vì họ kém tin. Người
cũng là người duy nhất ghi nhận đức
tin mạnh của bà Canaan (15,28).
- Ngài đã sử dụng động từ
hiểu 9 lần trong các chương này. Ở 15,10,
các đám đông được mời gọi nghe và hiểu.
Ở 15,16, các môn đệ bị gọi là ngu tối
(= không hiểu). Và cũng chỉ một mình Mt đã
ghi nhận rằng các môn đệ khi ấy mới hiểu
ra (16,12; 17,13) những gì cho tới nay họ vẫn không
hiểu.
Các ghi nhận này cho thấy, dọc theo các chương
này, tác giả Mt đặc biệt quan tâm đến
đức tin, nhất là đức tin của các môn đệ,
nhìn như một hành trình và như một nỗ lực
đào sâu và củng cố đức tin.
2.- Bố
cục
Bản văn này có thể chia làm ba phần:
1) Đức Giêsu chữa bệnh cho đám đông
(14,13-14):
a) Hoàn cảnh (c. 13),
b) Đức Giêsu chữa bệnh (c. 14);
2) Đức Giêsu nuôi đám đông (14,15-21):
a) Đức Giêsu đối thoại với
các môn đệ (cc. 15-18),
b) Đức Giêsu nuôi đám đông nhờ
trung gian các môn đệ (c. 19-20a);
3) Kết luận: Ghi nhận về bánh hóa nhiều (cc.
20b-21).
3.- Vài
điểm chú giải
- nơi
hoang vắng (13): dịch sát là nơi “sa mạc”. Phép lạ
hóa bánh ra nhiều tại sa mạc này khiến chúng ta nhớ
đến Môsê đã xin Chúa ban man-na cho đoàn dân trong thời
gian họ tiến đi trong sa mạc để về
Đất Hứa (x. Xh 16; Ds 11).
- chạnh
lòng thương (14): dịch sát là “đau đớn quặn
thắt trong ruột”. Nhiều lần Mt ghi nhận là
Đức Giêsu “động lòng thương” (esplanchnisthê:
9,36; 15,52) và bày tỏ lòng thương bằng những hành
vi cứu chữa.
- chiều
đến (15): Ghi nhận là bài tường thuật
Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể cũng bắt
đầu với công thức chỉ thời gian này (26,20).
- năm
cái bánh và hai con cá (17): Bánh và cá muối hoặc ngâm
dấm là những món thuộc về bữa ăn thông
thường của dân chúng.
- ngả
mình trên cỏ (19): Chi tiết này cho hiểu đây là thời
gian trong mùa xuân, tức ám chỉ đến lễ Vượt
Qua. Anaklithênai, “ngả mình”, là động từ gợi
ý đến một bữa tiệc, bởi vì khi ăn, các
thực khách Do Thái “ngả mình” trên những chiếc bàn thấp
(đi-văng). Bài tường thuật bí tích Thánh Thể
cũng dùng một động từ tương tự
(“Chiều đến, Đức Giêsu vào bàn tiệc” = ngả
mình [anekeito] trên giường tiệc; Mt 26,20).
- cầm
lấy … dâng lời chúc tụng … bẻ ra … trao cho (19):
Đây là chuỗi động từ được dùng
trong bài tường thuật về bí tích Thánh Thể (so
sánh: Mt 14,19 // Mt 26,26: “cầm lấy”: labôn/labôn;
“bánh”: artous/arton; “dâng lời chúc tụng”: eulogêsen/kai
eulogêsas; “bẻ ra”: klasas/eklasen; “trao cho các môn đệ”:
edôken tois mathêtais/dous tois mathêtais) . Việc bẻ bánh
luôn luôn là một nghi thức được thực
hiện trong bữa tiệc.
- … trao
cho môn đệ. Và môn đệ trao cho dân chúng (19): Các
môn đệ là trung gian giữa Đức Giêsu và đám
đông. Mt dùng một động từ duy nhất
(didômi, “cho, trao cho”) để nói về hành động
của Đức Giêsu và của các môn đệ. Trong khi
trong Mc (6,41) và Lc (9,16), các tông đồ “mang; phân
phát” (Mc: paratithôsin; Lc: paratheinai) bánh cho
đám đông, trong Mt, các ông có nhiệm vụ đáp ứng
nhu cầu của dân chúng bằng cách tiếp nối công việc
của chính Đức Giêsu.
- những
mẩu bánh còn thừa (20): Trong các bữa tiệc Do Thái,
có việc bẻ bánh trao cho nhau như một nghi thức. Những
mẩu bánh thừa khiến nhớ lại “nghi lễ bẻ
bánh”, tức bí tích Thánh Thể, mà các tông đồ và môn
đệ cử hành sau khi Đức Giêsu đã về trời
(x. Cv 2,42; 20,7).
- năm
ngàn đàn ông (21): Không chắc đây là con số chính xác
(làm sao đếm xuể?). Có lẽ Mt muốn so sánh
Đức Giêsu với ngôn sứ Êlisa và cho thấy Đức
Giêsu vượt xa ngôn sứ này: Trong sách 2 V 4,42-44,
Êlisa đã hóa hai mươi cái bánh lúa mạch ra nhiều
để nuôi 100 người (từ 1 thành 5). Ở đây
Đức Giêsu đã hóa năm cái bánh ra nhiều để
nuôi 5000 người (từ 1 thành 1000). Vậy Đức
Giêsu cũng là một ngôn sứ có khả năng làm phép lạ,
nhưng cao trọng hơn Êlisa nhiều.
- giỏ (20): Cái giỏ
(kophinos) để đựng các đồ vật
cũng là một đồ dùng để đo thể tích
(khoảng 10 lít).
4.- Ý
nghĩa của bản văn
Câu truyện Đức Giêsu nuôi đám đông hôm nay có thể
khiến chúng ta nhớ đến giai thoại man-na trong
hoang địa (Xh 16,11-36; Ds 11), Êlisa nuôi đám
đông (2 V 4,32-44), câu truyện tiệc cưới Cana
(Ga 2,1-12), cũng như các bữa ăn Đức
Giêsu chia sẻ với những người khác. Dù thế,
hẳn là có thật một hoàn cảnh ngặt nghèo, đói
khát.
* Đức
Giêsu chữa bệnh cho đám đông (13-14)
Hoàn cảnh lúc đó là một lần nữa, Đức
Giêsu lại muốn lánh đi về một nơi hoang vắng
riêng biệt vì bị giới lãnh đạo đe dọa
(x. 12,15). Tuy nhiên, đám đông dân chúng biết tin liền
đi theo Người. Đây không phải là lần đầu
tiên Mt cho thấy Đức Giêsu có đám đông
đi theo (x. 8,1; 12,15). Vẫn chính là Người hướng
dẫn cộng đồng những kẻ lưu đày về
quê hương. Lần này, đám đông thậm chí còn
đi trước Người, đưa theo những
người bệnh, và hẳn là cả các niềm hy vọng
của họ (c. 14). Đức Giêsu không bực bội nóng
giận vì dân chúng làm mất sự yên tĩnh, cũng không tỏ
ra lãnh đạm với đoàn dân; Người
thương cảm họ sâu xa (esplanchnisthê), hẳn
cũng vì một lý do như ở 9,36 (x. 15,32; 20,34; đọc
thêm: vì “thương xót” [eleeô]: 9,27; 15,22; 17,15; 20,30-31):
“vì họ lầm than vất vưởng, như bầy
chiên không người chăn dắt”. Thế là Người
lại hòa mình vào giữa đám đông để chữa bệnh
cho họ. Hành vi đầu tiên Người làm lúc này là chữa
bệnh: các sự dữ không chỉ được khoan
nhượng, mà còn bị loại trừ. Sau những ca chữa
bệnh “cụ thể”, khó mà nói rằng việc nuôi đám
đông chỉ có tính biểu tượng hoặc bí tích; hẳn
đây cũng là một phép lạ “cụ thể”.
* Đức
Giêsu nuôi đám đông (15-21)
Khi chiều đến, các môn đệ là những
người thực tế, đánh giá tình hình khách quan, đã
đến đề nghị Đức Giêsu giải tán
đám đông, để họ có thể tùy nghi vào các làng mạc
mà mua lương thực. Chi tiết này cho thấy họ
không nhất thiết là những người “khố rách áo
ôm”. Chẳng những không đồng ý, Đức Giêsu còn
yêu cầu các ông cho đám đông ăn. Đây là một yêu
cầu rất thiếu thực tế, mà chính Đức
Giêsu biết. Tác giả phác họa ra Người như một
bề trên, Chúa tể tối cao ra lệnh cho các môn đệ
làm một việc dường như không thẻ làm nổi,
nhưng người thì biết chính xác Người sẽ
làm gì. Người chỉ muốn các môn đệ cộng
tác với Người để làm công việc cung cấp
lương thực cho dân chúng. Khi các môn đệ tỏ ra
ngại ngùng, vì chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá (c.
17), Người không trả lời họ; Người bảo
mang cá và bánh lại cho Người (c. 18).
Với một lệnh một lần nữa gợi ra
uy quyền tối thượng của Đức Giêsu, tác
giả đưa vào truyện phép lạ. Ngài không ghi lại
chi tiết phân thành các nhóm một trăm và năm
mươi như Mc 6,40. Đức Giêsu cầm lấy
bánh và cá, ngước mắt lên trời (không phải là cử
chỉ thông thường của người Do Thái khi cầu
nguyện, dù có thể làm), dâng lời chúc tụng Thiên Chúa
(chứ không phải là làm phép bánh và cá), rồi bẻ ra, tao
cho các môn đệ; các môn đệ phân phát cho dân chúng. Với
những công thức này, một độc giả Kitô hữu
gốc Do Thái nhớ tới những bữa ăn trong gia
đình, tại nhà thờ và Bữa Tối của Chúa. Họ
hiểu rằng bài tường thuật trước tiên kể
lại một phép lạ, nhưng cũng nhắc họ nhớ
đến bữa tiệc Thánh Thể. Quả thật tác
giả nhắc lại những công thức của bài
tường thuật về bí tích Thánh Thể nhằm nhắc
lại và cũng giới thiệu trước bài tường
thuật về việc thiết lập bí tích Thánh Thể.
Biến cố này là một hình ảnh về Giáo Hội,
nên cũng cần được giải thích theo hướng
đó. Đức Giêsu ở tại trung tâm, Người là
nguồn mạch ban phát mọi ân huệ, Người ban lời
và bánh. Rồi đến nhóm nhỏ các môn đệ bao
quanh Người. Họ ở sát bên Người, họ
chuyển thông các ân huệ của Người, họ
như là cánh tay Người nối dài ra. Đám đông
được Đức Giêsu quy tụ lại
thì ngồi xung quanh các ngài: họ vui sướng được
ở với Người. Đức Giêsu ngước mắt
lên trời khi đọc lời chúc tụng. Người
làm những việc “Chúa Cha giao cho Người hoàn thành” (x. Ga
5,36). Người không còn chỉ là vị trung gian như
Môsê, hay chỉ là một ngôn sứ nhỏ như Êlisa ngày
xưa. Nay Người chính là Đấng ban sự sống,
bởi vì Người là nguồn sự sống. Tương
quan giữa hai mươi cái bánh của Êlisa với một
trăm người được ăn no (1 thành
5) và năm chiếc bánh của Đức Giêsu với
năm ngàn người được no nê (1 thành 1000) nêu bật
sự trổi vượt của phép lạ thứ hai. Đức
Giêsu là một ngôn sứ và một Đấng làm
phép lạ, nhưng cao cả hơn Êlisa nhiều.
* Kết
luận: ghi nhận về bánh hóa nhiều (20b-21)
Chi tiết “mười hai giỏ đầy” (c. 20) những
mẩu bánh thừa không có điểm tựa nào khác trong bài
để độc giả có thể nói rằng chi tiết
này quy về mười hai môn đệ hay mười hai
chi tộc Israel. Chúng ta chỉ có thể nói:
như vậy đám đông đã được ăn no.
Bản văn hẳn cũng song song với truyện
phép lạ man-na, cũng xảy ra trong hoang địa
trước đám đông dân chúng (x. Xh 16; Ds 11). Bánh
và cá hôm nay thay thế cho man-na và chim cút ngày xưa. Với những
dấu lạ này, Đức Giêsu xuất hiện như nhà
giải phóng của thời cuối cùng. Nhờ năm chiếc
bánh, tượng trưng năm quyển sách của Torah mới
(Ortensio da Spinetoli), Đức Giêsu nuôi đoàn dân Thiên
Chúa đang tiến về đất hứa. Những chi tiết
này đặt sánh đôi Đức Kitô với Môsê, Họi
Thánh với cộng đoàn Xuất Hành. Hôm nay, nhà giải
phóng đích thực, vị mục tử, nhà lãnh đạo
dân Thiên Chúa, dẫn dắt một đoàn dân bị bỏ
rơi và đang tiến đi trong sa mạc trần gian
này, là một mình Đức Giêsu.
Trong nền văn chương kinh sư, bữa tiệc
là biểu tượng của cộng đoàn cánh chung (hiệp
thông đời sống: St 31,54; Xh 18,12; 1 Sm
9,12; Am 2,8; Hs 8,13; và niềm hạnh phúc thời
thiên sai: Is 48,21; 49,9-10; 55,1; 65,13; Dc 5,1; Is
25,6; Tv 23,1-5). Việc Đức Giêsu quy tụ các môn
đệ và dân chúng ở bờ hồ như thế trở
thành nghi thức khai mạc thời đại mới. Sa mạc,
nơi đầy những thử thách và gai góc, đã trở
thành một khu vườn.
+ Kết
luận
Đức Giêsu quả là Đấng có quyền trên bệnh
tật và sự đói khát. Một lần nữa, dân chúng
trải nghiệm về quyền lực và sự quan tâm của
Đấng Mêsia.
Biến cố được kể trong bản văn
này là một hình ảnh về Họi Thánh. Đức
Giêsu ở ngay trung tâm, Người là nguồn mạch từ
đó phát xuất mọi ân huệ, Người chữa
lành, ban Lời và bánh. Kế đó là nhóm nhỏ các môn đệ.
Các ông ở ngay bên Đức Giêsu, các ông chuyển giao các ân
huệ Người ban, các ông là như cánh tay nối dài của
Người. Dân chúng được quy tụ lại thì ngồi
chung quanh Người; họ sung sướng được
ở với Người. Đức Giêsu ngước mắt
lên trời mà đọc lời chúc tụng. Người
hướng về Thiên Chúa là Cha của Người, là
Đấng mà Người luôn tìm biết ý muốn để
chu toàn (x. Mt 11,25-27). Bây giờ Đức Giêsu không chỉ
còn là một trung gian như Môsê xưa kia nữa;
Người chính là Đấng ban sự sống, bởi vì
Người là nguồn mạch từ đó phát xuất ra
sự sống.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Các môn đệ cần quan
tâm học hỏi cách xử sự của Đức Giêsu:
cứu chữa. Nhưng họ chỉ có thể học
được bài học này, nếu họ có trái tim của Đức Giêsu: thương cảm
sâu sắc trước tình cảnh của người anh
em chị em, tức là biết quan tâm đến hoàn cảnh
sống của anh chị em mình, với trá tim đầy
tình yêu thương.
2. Phép lạ đặc biệt
nhắm đến các môn đệ. Có thể
họ còn yếu đức tin, nhưng họ đã trải
nghiệm quyền năng từ bi của Chúa họ.
Họ sẽ còn trải nghiệm về điều này lần
nữa (15,32-39). Qua những kinh nghiệm
đó, họ sẽ hiểu (16,5-12).
Đàng sau các môn đệ là Hội Thánh: trong cuộc sống
chia sẻ với Đức Chúa Phục Sinh, qua những bữa
ăn, và trong mỗi Thánh Lễ, Bữa tiệc của
Chúa, Hội Thánh lại sống biến cố hóa bánh ra nhiều
tại bờ hồ hôm ấy.
3. Không được quá đề
cao cơm bánh vật chất (x. Mt 6,25-26),
nhưng cũng không được quên cơm bánh vât chất
(6,11). Phải nghĩ đến việc nuôi dưỡng bản
thân (6,11), nhưng cũng phải quan tâm
đến việc nuôi sống người khác. Người
Kitô hữu không được ăn uống
một mình, vì luôn ở giữa một đoàn
anh chị em đang chờ đợi thức ăn họ
thiếu. Họ phải đi ra khỏi tình
trạng cô lập mà sống trong cộng đoàn và trong sự
hiệp thông với mọi người. Bài học hôm
nay cho hiểu rằng họ chỉ việc dâng cho Đức
Giêsu chút tài nguyên ít ỏi của mình, rồi làm theo sự hướng dẫn của Người.
4. Trong khi trong bản văn Ga
6, các tông đồ không có sáng kiến nào, trong các TMNL,
chính các ông lưu ý Đức Giêsu, trao đổi về
cách cung cấp các nhu yếu phẩm cho đám đông, cuối
cùng nhận được nhiệm vụ phân phát bánh và thu
gom các mảnh vụn còn dư. Các môn đệ
nhận lệnh đưa bánh và cá, chuẩn bị và phục
vụ bữa ăn. Công việc của
các ông nối dài công việc của Đức Giêsu. Hôm nay, các mục tử cũng không thể bỏ
mặc đoàn chiên thiếu lương thực thiêng liêng
và nhất là lương thực Thánh Thể.
5. Mỗi khi tham dự thánh lễ,
các tín hữu sống một biến cố mang tính Giáo Hội:
họ vây quanh Đức Giêsu, họ chia sẻ chính Mình Máu
Người. Sau đó, họ được mời gọi
ra đi (Ite, missa est: “Lễ đã xong,
anh chị em hãy ra đi (loan báo Tin Mừng)”) để,
cũng như Đức Giêsu, họ trở thành “tấm
bánh” nuôi dưỡng nhân loại và kiến tạo một
thế giới mới.
|