ĐỈNH
HẠNH PHÚC
(Lễ
Chúa Giêsu hiển dung, năm A)
Hiển
dung (biến hình) là biến cố quan
trọng xảy ra trên núi Tabor. Cả
ba Phúc Âm Nhất lãm (Synoptic Gospels) đều
thuật lại sự kiện quan trọng này
(Mt 17:1-8; Mc 9:2-9; Lc 9:28-36). Đó
là thời điểm Chúa Giêsu thấy
cần thiết cho ba môn đệ thân tín
(Phêrô, Giacôbê và Gioan) được
“nếm thử” vinh quang Nước Trời
để củng cố đức tin cho họ.
Một cuộc thị kiến tuyệt vời! Và
rồi sau khi Thầy Giêsu chịu chết và
phục sinh, Tông đồ Giacôbê là
người đầu tiên trong Nhóm Mười
Hai đã hùng hồn minh chứng đức
tin bằng việc tử vì đạo (lễ
kính ngày 25 tháng 7).
Sự
kiện Chúa Giêsu biến hình trên
núi Tabor là một cuộc thị kiến.
Về sau, cũng đã có một số
thị nhân được thị kiến về
những điều khác nhau. Chẳng hạn,
Thánh Teresa Avila (1515-1582) được thị
kiến Hỏa ngục, Thánh Margaret Mary Alacoque
(1647-1690) được thị kiến Thánh
Tâm Chúa Giêsu, Chân phước Anne
Catherine Emmerich (1774-1824) được thị kiến
Bữa Tiệc Ly, ba trẻ em ở Fátima được
thị kiến Hỏa ngục, Thánh Faustina
Kowalska (1905-1938) cũng được thị kiến
Hỏa ngục và các thị kiến khác,
đồng thời có nhiệm vụ loan báo
Sứ điệp Lòng Thương Xót của
Thiên Chúa,...
Thời
Cựu Ước cũng đã có một
số người được thị kiến,
điển hình là ngôn sứ Đanien.
Ông kể lại giấc mộng: “Tôi
đang nhìn thì thấy đặt những
chiếc ngai và một Đấng Lão Thành
an tọa. Áo Người trắng như tuyết,
tóc trên đầu Người tựa lông
chiên tinh tuyền. Ngai của Người toàn
là ngọn lửa, bánh xe của ngai cũng
rừng rực lửa hồng. Từ trước
nhan Người, một sông lửa cuồn cuộn
chảy ra. Ngàn ngàn hầu hạ Người,
vạn vạn túc trực trước Thánh
Nhan. Toà bắt đầu xử, sổ sách
được mở ra”
(Ðn 7:9-10). Đó là quang cảnh Ngày
Phán Xét, khi Đức Kitô tái lâm
để phân biệt chiên với dê,
tách cỏ lùng khỏi lúa. Đó
là Giờ Công Lý, vì Giờ Thương
Xót đã hết – tức là lúc
Thẩm phán Tòa Thượng Thẩm xét
xử mọi người để thưởng
công hoặc tuyên án phạt đời
đời.
Thị
kiến là cuộc “đối diện”
siêu nhiên, cứ bình thường thì
mắt người ta không thể chịu nổi
loại ánh sáng đó. Ông Mô-sê
đã từng phải che mặt khi được
gặp Thiên Chúa. Ngôn sứ Đanien
cho biết thêm: “Trong
những thị kiến ban đêm, tôi mải
nhìn thì kìa: có ai như một
Con Người đang ngự giá mây trời
mà đến. Người tiến lại gần
bên Đấng Lão Thành và được
dẫn đưa tới trình diện. Đấng
Lão Thành trao cho Người quyền thống
trị, vinh quang và vương vị; muôn
người thuộc mọi dân tộc, quốc
gia và ngôn ngữ đều phải phụng
sự Người. Quyền thống trị của
Người là quyền vĩnh cửu, không
bao giờ mai một; vương quốc của
Người sẽ chẳng hề suy vong”
(Ðn 7:13-14). Những lời mô tả rất
rõ ràng, cho thấy những hình ảnh
chính xác và kỳ lạ. Nhưng đó
là sự thật chứ không là chuyện
vui đùa, cũng chẳng là huyền
thoại hoặc cổ tích.
Quả
đúng là như vậy, Thánh Vịnh
gia đã động viên và tiên
báo từ rất xa xưa: “Chúa
là Vua hiển trị, hỡi địa cầu,
hãy nhảy mừng lên, vui đi nào,
ngàn muôn hải đảo! Mây u ám
bao phủ quanh Người, bệ ngai rồng là
công minh chính trực. Núi tan chảy
như sáp, khi diện kiến Thánh Nhan vị
Chúa Tể hoàn cầu. Trời xanh tuyên
bố Người là Đấng chính
trực, hết mọi dân được thấy
vinh quang Người”
(Tv 97:1-2, 5-6).
Có
điều tất nhiên: Mọi loài mọi
vật đều phải tâm phục khẩu
phục. Tại sao? Đây là lý do rất
đơn giản nhưng lại chính xác:
“Chính
bởi vì Ngài là Đấng Cao Cả
trên khắp địa cầu, Ngài trổi
vượt chư thần hết thảy”
(Tv 97:9).
Khi
đã “thực mục sở thị”
chính Thầy Giêsu và có kinh nghiệm
đầy mình với những tháng năm
theo Thầy Giêsu rong ruổi khắp các lối
hẹp lối gần, đường rộng đường
xa, ông Phêrô minh chứng: “Thật
vậy, khi chúng tôi nói cho anh em biết
quyền năng và cuộc quang lâm của
Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta,
không phải chúng tôi dựa theo những
chuyện hoang đường thêu dệt khéo
léo, nhưng là vì chúng tôi đã
được thấy tận mắt vẻ uy phong
lẫm liệt của Người”
(2 Pr 1:16). Giáo hoàng tiên khởi còn
cho biết thêm: “Quả
thế, Người đã được Thiên
Chúa là Cha ban cho vinh quang và danh dự,
khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời
vinh hiển phán với Người: “Đây
là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng
quý mến”
(2 Pr 1:17-18).
Rất
minh nhiên, Thánh Phêrô kết luận:
“Như
vậy, chúng tôi lại càng thêm
tin tưởng vào lời các ngôn sứ.
Anh em chú tâm vào đó là phải,
vì lời ấy như chiếc đèn tỏ
rạng giữa chốn tối tăm, cho đến
khi ngày bừng sáng và sao mai mọc
lên soi chiếu tâm hồn anh em”
(2 Pr 1:19). Bảy mươi còn phải học
bảy mốt, chúng ta chỉ là hậu
duệ xa lắc xa lơ, không thể dám
dại đột mà làm ngơ những
lời chứng đó.
Chắc
hẳn rằng tin không là điều dễ
thực hiện trong một sớm một chiều,
tức là khó lắm. Biết thế nên
Chúa Giêsu mới khuyến khích: “Phúc
thay những người không thấy mà
tin!”
(Ga 20:29). Tin và ảo tưởng rất dễ
lầm lẫn, thế nên phải có được
khả năng phân định rạch ròi.
Có những thứ được tận mắt
thấy tỏ tường mà đôi khi
chúng ta vẫn không tin, hoặc cứ bán
tín bán nghi. Thật là khó lắm!
Và đức tin cũng vẫn cần có
lý trí minh mẫn, nếu không sẽ
dễ bị cuồng tín – mà cuồng
tín là phi tôn giáo. Sách “Gương
Chúa Giêsu” phân biệt: “Lý
trí con người yếu đuối nên
thường có thể làm sai, duy chỉ
có đức tin chân chính mới hoàn
toàn không sai lầm”.
Đức tin quan trọng, nhưng phải là
Đức Tin Chân Chính, nếu không thì
chỉ là ảo giác!
Là
những con người bình thường, chúng
ta không có diễm phúc được
thị kiến như các thánh, nhưng
chúng ta vẫn có nhiều cách thị
kiến khác – chẳng hạn, ngắm nhìn
thiên nhiên hoặc nhìn vào các
biến cố của cuộc đời. Rất
nhiều thánh cũng chỉ “thị kiến”
với đức tin giữa đời thường
như vậy mà thôi.
Chỉ
mới trước đó một tuần lễ,
Chúa Giêsu đã minh định rằng
Ngài “phải đi Giêrusalem, phải
chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục,
các thượng tế và kinh sư gây
ra, rồi bị giết chết, và ngày
thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16:21). Nghe
Thầy nói vậy, các môn đệ
chưng hửng, thất vọng và hụt
hẫng. Bao năm gắn bó với Thầy,
đồng lao cộng khổ với Sư Phụ,
chấp nhận “nằm gai” với hy vọng
được “nếm mật”, một
lòng một dạ theo Thầy, bỏ ăn bỏ
ngủ để lang thang khắp nơi với
Thầy, chỉ mong đến lúc Thầy được
vinh quang hiển hách thì mình cũng
được hưởng chút công lao là
chức tước và bổng lộc. Chính
Giacôbê và Gioan đã hí hửng
xin Thầy Giêsu: “Xin
cho hai anh em chúng con, một người được
ngồi bên hữu, một người được
ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được
vinh quang”
(Mc 10:37). [Mt 20:20-23 nói rằng người mẹ
xin dùm]. Thế nhưng nào ngờ Thầy
lại sắp đi chịu chết. Sầu não
lòng, buồn thúi ruột! Thế là
“lâu đài kỳ vọng” chợt
sụp đổ như bị trận động
đất mạnh, “mộng vàng tương
lai” chợt biến tan thành mây khói,
như bong bóng vỡ tan. Công dã tràng
rồi. Trắng tay. Thế là hết!
Tội
nghiệp hết sức! Chúa Giêsu biết
các đệ tử đang “ấm ức”
và hầu như tuyệt vọng, thế nên
sau đó, Ngài thấy cần dẫn ba “đệ
tử ruột” lên núi, cho các ông
tận mắt chứng kiến vinh quang rực rỡ
của Ngài ra sao. Ngài biết sức chịu
đựng của con người có giới
hạn, bởi vì các môn đệ
cũng là những con người. Họ đã
từng tin và tuyên xưng Ngài, nhưng
có lúc vẫn bị chao đảo trước
những biến cố không như họ nghĩ.
Nếu không mặc khải cho các ông
biết chính Ngài thực sự là
Thiên Chúa thật, có thể các
ông sẽ rút lui không lời từ
biệt, bỏ của chạy lấy người.
Và chúng ta cũng đã và đang
như thế đấy thôi. Ôi, lạy
Thiên Chúa của con!
Qua
trình thuật Mt 17:1-9, Thánh sử Mátthêu
cho chúng ta biết: Đức
Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê
và Gioan là em ông Giacôbê đi
theo mình. Người đưa các ông
đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn
núi cao. Rồi Người biến đổi
hình dạng trước mặt các ông.
Dung nhan Người chói lọi như mặt
trời, và y phục Người trở nên
trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng
các ông thấy ông Môsê và
ông Êlia hiện ra đàm đạo với
Người.
Trên cả tuyệt vời, cảnh Thiên
Đàng sao mà kỳ lạ và độc
đáo quá đi, nhưng cũng thú
vị lắm lắm, vì Tabor là Đỉnh
Hạnh Phúc!
Giả
sử phàm nhân chúng ta được
thấy tiên cảnh thì còn gì sung
sướng cho bằng, chẳng khác gì
chàng Lưu Nguyễn lạc vào Thiên
Thai vậy. Vì thế, ngay lúc được
thị kiến ông Phêrô vui mừng thưa
ngay với Sư Phụ Giêsu: “Lạy
Ngài, chúng con ở đây, thật là
hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại
đây ba cái lều, một cho Ngài,
một cho ông Môsê, và một cho ông
Êlia”
(Mt 17:4). Chỉ cần lo cho ba VIP (Very Important Person –
nhân vật quan trọng) mà thôi, còn
ba đệ tử đang sướng rơn, hồn
lâng lâng, nhéo chả đau tí nào,
thế nên họ củng chẳng cần chi cho
mình nữa. Thế là quá “đã”
rồi!
Và
còn hơn thế nữa, khi ông Phêrô
còn đang nói, chợt có đám
mây sáng ngời bao phủ các ông,
và có tiếng từ đám mây
phán rằng: “Đây
là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng
về Người. Các ngươi hãy vâng
nghe lời Người!”
(Mt 17:5). Nghe vậy, các môn đệ kinh
hoàng, ngã sấp mặt xuống đất.
Nghe tiếng nói mà không như tiếng
nói, thấy người mà không như
người, lạ vô cùng, phàm ngôn
không thể diễn tả được. Hoảng
sợ và té cái “đùng”
vậy đó, thế nhưng họ lại cảm
thấy sung sướng vô cùng. Chỉ một
thoáng thôi mà sao sướng thế
không biết!
Cả
ba ông còn đang choáng ngợp thì
Đức Giêsu lại gần, chạm vào
các ông và bảo: “Chỗi
dậy đi, đừng sợ!”
(Mt 17:7). Mọi sự trở lại bình thường
y như trước đó. Các ông
ngước mắt lên, dụi mắt, nhưng
không thấy hai vị kia, chỉ còn một
mình Đức Giêsu mà thôi. Lạ
ghê ta! Giá mà được lâu lâu
một chút nhỉ? Nhưng thôi, “nếm
thử” vinh quang Thiên Chúa chút chút
vậy cũng đủ tăng lực đức
tin rồi. Lại phải vào đời và
làm những việc cần thiết thôi...
Đang khi thầy trò từ trên núi
xuống, Đức Giêsu truyền cho các
ông rằng: “Đừng
nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến
khi Con Người từ cõi chết trỗi
dậy”
(Mt 17:9).
Mặc
dù thị kiến chỉ xảy ra trong chốc
lát, thế mà kỳ diệu quá chừng,
chắc chắn cõi Thiên Đàng còn
hạnh phúc đến chừng nào, hẳn
là không thể nào tả nổi bằng
phàm ngôn. Phúc trường sinh là
đời đời cơ mà! Và đó
mới là Đỉnh Hạnh Phúc đích
thực, nơi mà ai cũng phải không
ngừng cố gắng để có thể đạt
tới. Còn tất cả mọi dạng hạnh
phúc ở trần gian này chỉ là
tạm bợ, và cũng chỉ thoáng qua.
Với kinh nghiệm bản thân, Thánh Phêrô
cho biết: “Đối
với Chúa, một ngày ví thể ngàn
năm, ngàn năm cũng tựa một ngày”
(2 Pr 3:8). Thì ra là thế, thảo nào…!
Lạy
Thiên Chúa hằng sinh, toàn năng và
chí thánh, xin tăng lực Đức Tin
cho con để con luôn vững bước lữ
hành, không chao đảo trong mọi hoàn
cảnh. Xin giúp con cũng biết chia sẻ
với tha nhân những gì con cảm nhận
được về Đức Tin để cùng
nhau tiến về Thiên Quốc, nơi có
Đại Huynh Giêsu đang chờ chúng con
về đoàn tụ. Con cầu xin nhân danh
Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu
độ nhân loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
|