Hiểu
biết và kiên nhẫn – Lm FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Câu dẫn nhập
ngắn (c. 24a) liên kết dụ ngôn Cỏ lùng (13,24b-30)
với hai dụ ngôn tiếp theo (cc. 31a.33a). Chủ
đề “gieo giống” cũng là chủ đề của
dụ ngôn trước; các từ móc là “gieo” (speirô),
“giống” (sperma) và “ruộng” (agros).
Hai dụ ngôn
ngắn, Hạt cải và Men (cc. 31-33), đưa chúng ta
tới với diễn từ về các dụ ngôn
Đức Giêsu giảng cho công chúng. Dụ ngôn Hạt
cải, với một câu mở tương tự 13,24,
được liên kết với dụ ngôn trước
bằng những từ móc “con người” (anthrôpos), “gieo”
(speirô), “ruộng” (agros) và “giống” (sperma). Dụ ngôn Men có
nhiều điểm khác biệt hơn. Hai dụ ngôn này có
bố cục song song trong phần thứ nhất, còn
kết luận thì khác nhau.
Các câu 34-35 đưa
tới một kết luận cho bài Diễn từ công
cộng. Tác giả Mt đưa độc giả trở
lại với cc. 2-3 và cc. 10.13. Câu 35b tương ứng
với Tv 78,2 LXX, vì có số phức en parabolais (“Mở
miệng ra, tôi sẽ kể các dụ ngôn); còn c. 35c không
tương ứng với một bản văn Kinh Thánh nào
cả và cũng không thuộc ngôn ngữ Mt.
Với c. 36a, chúng ta
được đưa trở lại với Mt 13,1-2:
thể văn đóng khung. Câu hỏi của các môn
đệ kèm theo câu trả lời của Đức Giêsu
được đối lại ở c. 51, với câu
hỏi của Đức Giêsu và câu trả lời của
các môn đệ.
2.- Bố cục
Nếu xác
định cấu trúc theo kiểu quen thuộc của Mt,
chúng ta có thể cho rằng đoạn văn đọc
hôm nay có ba phần A, B và C, với một câu mở và
một câu kết như sau:
Mở (13,24a)
A. Các dụ ngôn:
(1) Dụ ngôn 1:
“Cỏ lùng” (13,24b-30):
a) Trình bày sự
việc (cc. 24b-26),
b) Mẩu đối
thoại giữa chủ nhà và các đầy tớ (cc.
27-30);
(2) Dụ ngôn 2: “Hạt
cải” (13,31-32),
(3) Dụ ngôn 3: “Men”
(13,33);
B. Lý do nói bằng Dụ ngôn (13,34-35);
C. Dụ ngôn Cỏ lùng được
giải thích (13,36-42; c. 36 là câu dẫn nhập):
a) Giải thích bài
dụ ngôn từng từ một (cc. 37-39),
b) “Bài khải
huyền nhỏ” (cc. 40-43);
Kết (13,43).
3.- Vài điểm chú giải
- Cỏ lùng (zizania,
25):
Đây là một loại cỏ ăn bám, độc
hại. Khắp vùng Trung Đông đầy loại cỏ
này. Nó bị coi là một dạng thoái hóa, biến chất,
của lúa mì. Trong thân nó, có một thứ nấm
thường tiết ra một chất độc.
- Hạt cải (31): Tiếng Hy Lạp
là kokkos sinapeôs. Cây sinapi (ta tạm dịch là “cây cải”) là
một loại cây rau thông dụng bên Paléttina, có thể cao
tới ba hoặc bốn thước, dạng mộc
với các cành tỏa rộng. Lá của nó có thể làm rau.
Hạt của nó không phải là nhỏ nhất trong các loại
hạt (đường kính khoảng 1mm), nhưng nhỏ
nhất trong các loại hạt được người
ta gieo trồng, được dùng làm mù-tạc, thuốc và
thức ăn cho chim. Tục ngữ Do Thái dùng hạt này mà
chỉ những gì nhỏ nhất. Sách Mishna coi cây cải
đen (brassica nigra) là loại cây trồng ngoài cánh
đồng. Nhưng tại Paléttina và nhiều nơi khác,
người ta trồng trong vườn nhà.
- Nó trở thành cây to
(32):
Trong Cựu Ước, cây cho đàn chim trú ngụ là
một hình ảnh quen thuộc để diễn tả
một vương quốc hùng mạnh đảm bảo
che chở các thần dân (x. Ed 17,23; 31,6; Đn 4,9; 11,18). Trong
nền văn chương khải huyền, kinh sư
hoặc targum, “chim” tượng trưng các dân ngoại
đang kéo đến thật đông. Ở đây, Mt nêu
bật đặc tính cánh chung của dụ ngôn khi phóng
đại kích thước của cây rau thành “một cây
to”.
- chim trời tới
làm tổ trên cành (32): Chi tiết này không phải là không
thể xảy ra, bởi vì chim chóc thích ăn hạt
cải.
- vùi vào (33): dịch sát là
“giấu trong” (enekrypsen). Động từ này đi với
văn cảnh (x. cc. 35.44)
- ba thúng bột (33): “Thúng” là từ
được chọn để dịch từ saton Hy
Lạp. Saton là một đơn vị đo lường
ngũ cốc và bột, tương đương với
13-15 lít. Đây là một lượng bột lớn, khi
đã dậy men thì có thể làm ra bánh cho khoảng 150
người ăn. Mt nhấn mạnh đến tính
hữu hiệu của men.
- công bố (35): Động từ
“công bố”, ereugomai, hiếm khi được dùng.
Nghĩa chữ là “mạc khải”, nhưng cũng có
thể là “gây ồn ào”, “thốt ra”, “diễn tả”.
- các gương mù
gương xấu (40): Trong Kinh Thánh, skandala nhắm đến
những sự vật chứ không nhắm đến
những con người (x. Mt 18,6-7). Đây là những
điều làm cho người khác “vấp”, nghĩa là không
đi vững vàng trong đường lối Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Nhìn vào cuộc
sống, ta thấy Thiên Chúa ở trong tình trạng ẩn
mình, Ngài không can thiệp cách rõ ràng hiển nhiên.
Người ta có thể sống không cần và còn chống
lại Ngài mà dường như chẳng phải chịu
hậu quả gì. Ngài biến mất hoàn toàn đàng sau các
thế lực và các quyền hành đang thống trị sân
khấu thế giới và đang can thiệp vào trong
đời sống chúng ta cách quyết liệt. Tất
cả tình trạng này vẫn là một chướng kỳ
khiến con người khó mà coi trọng Thiên Chúa và tin
cậy nơi Ngài. Điều này cũng đúng cho bản
thân và công trình của Đức Giêsu, đúng cho cả
cộng đoàn các tín hữu là Hội Thánh. Do bản tính,
chúng ta hướng về sự to lớn, sức mạnh,
sự hào nhoáng, sự hiển nhiên, sự cao cả,
chứ chúng ta không nghiêng về sự chờ đợi,
sự kiên trì nhẫn nại. Các giáo huấn của
Đức Giêsu hôm nay giúp chúng ta suy nghĩ lại cách suy
tưởng và xử sự của chúng ta.
Đức Giêsu
đến không như một nhà chiến thắng oai hùng,
có sức thuyết phục và thống trị mọi
người. Con đường Người theo và công trình
của Người gây nhiều mệt nhọc. Cái chết
của Người trong tình trạng bất lực và
bị bỏ rơi dường như cung cấp một
dấu chỉ rõ ràng cho thấy Người không đáng giá
gì và ta không thể tin cậy nơi Người.
Đức Giêsu
biết hoàn cảnh khó chịu này, nhưng Người
không thay đổi cách xử sự: Người là và
vẫn là Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người (x. Ga
1,14), Người đã đi vào trong tình trạng lệ
thuộc, yếu đuối và mỏng dòn của cuộc
sống con người. Người vẫn là Người
Tôi Tớ của Thiên Chúa, không gây ồn ào, không tỏ ra hào
nhoáng (x. Mt 12,15-21).
* Dụ ngôn 1:
“Cỏ lùng” (24-30)
Tuy nhiên, Đức
Giêsu cũng muốn giúp chúng ta hiểu đúng đắn
hoàn cảnh này và ngăn cản chúng ta rút ra những
kết luận vội vã. Chúng ta không được
chỉ nhìn vào ngày hôm nay, và khép mình lại trong khoảnh
khắc hiện tại. Dụ ngôn Cỏ lùng có mục
đích ấy.
Dụ ngôn Cỏ lùng
là một tấn kịch có hai cảnh. Cảnh thứ
nhất diễn ra hai nhân vật và hành động
đối lập: Trên cùng một mảnh đất, ông chủ
và kẻ thù đã gieo hai loại giống khác nhau, lúa
tốt và cỏ lùng là loại cỏ ăn hại. Cảnh
thứ hai mở ra với sự can thiệp của các
đầy tớ: Họ hỏi một câu hỏi thừa
là chẳng lẽ ông chủ lại không gieo giống
tốt, mà như vậy thì do đâu có cỏ lùng. Câu
hỏi không cần thiết, nhất là bởi vì họ
không hỏi vì sao có quá nhiều cỏ lùng như thế. Có
ai lại ngạc nhiên khi thấy trong một thửa
ruộng xuất hiện thứ cỏ không thể tránh
được?
Câu trả lời
của ông chủ thật đáng ngạc nhiên. Ông biết
rõ ràng là kẻ thù đã làm điều đó. Tuy nhiên, có
kẻ thù nào lại có ý tưởng đó và lại có
đủ hạt giống cỏ lùng mà gieo ngay trong đêm
như thế! Nếu họ lén lút gặt lúa chín hoặc
đốt cánh đồng, thì còn dễ hiểu hơn.
Đàng khác, gợi ý của các đầy tớ là nhổ
cỏ lùng cũng dễ hiểu, vì người ta vẫn
làm như thế. Vậy mà ông chủ lại không
đồng ý, ông bảo: “Cứ để cả hai cùng
lớn lên cho tới mùa gặt” (c. 30). Như thế, bài
dụ ngôn không muốn mô tả cách làm ruộng thông thường.
Mọi chuyện
trở nên rõ ràng khi đến cuối. Các thợ gặt,
chứ không phải là các đầy tớ đã
đến hỏi, trước tiên sẽ thu gom cỏ lùng,
bó thành bó mà đốt đi. Thông thường người
ta làm cách khác: cỏ lùng chưa được nhổ
đi sẽ bị thợ gặt quẳng trên đất,
sau đó được thu gom lại cho gà ăn hoặc
để đốt đi.
* Dụ ngôn 2:
“Hạt cải” (31-32)
Bằng dụ ngôn
tiếp theo, Đức Giêsu mời độc giả quan
tâm đến sự tương phản giữa hạt
cải lúc đầu và cây to ở hồi kết thúc.
Hạt cải là một thứ bé nhỏ và không đáng ai
để ý, nhưng sẽ không cứ ở trong tình
trạng nhỏ bé mãi; nó sẽ phát triển nhiều và
mọi người phải nhìn nhận nó. Một chi
tiết lạ: người nọ gieo “(chỉ) một”
hạt cải trong ruộng/cánh đồng. Hẳn chúng ta
nhớ lại bài dụ ngôn trước (13,24), nhưng
ở đây rõ ràng không phải là vấn đề gieo và
gặt, mà là vấn đề đặc tính của cây
cải mà Đức Giêsu muốn vận dụng để
giới thiệu Nước Trời.
Chuyện xảy ra cho
Nước Trời cũng như vậy: khởi
đầu trong tình trạng bé nhỏ, khiêm tốn; nhưng
kết cuộc sẽ là một kết quả đầy
sức thuyết phục. Dụ ngôn này là một lời
“loan báo” đầy sức an ủi và khích lệ cho
những ai chưa thấy các nỗi niềm chờ mong
thiên sai được thể hiện nơi công trình
của Đức Kitô.
* Dụ ngôn 3: “Men”
(33)
Dụ ngôn về men
lấy lại bài học của dụ ngôn trên. Hình ảnh
“men” lấy từ nhà bếp. Bà nội trợ có thể mua
men hoặc tự làm lấy. Đây là sự tương
phản giữa phần khởi đầu nhỏ bé và
khối lượng bột to lớn ở cuối.
Khởi đầu với một chút men, không mấy ai
để ý; nhưng trong đó đã chứa đựng
tất cả sức bung mở trong tương lai. Như
men đã được “giấu ẩn” trong bột,
Nước Thiên Chúa lúc khởi đầu là một
thực tại không ai thấy; chỉ sang giai đoạn
thứ hai, ta mới thấy được sức
mạnh của chút men ấy. Sự nhỏ nhoi khiêm tốn
của chút men khiến làm ta không ngờ tới tác
động của nó trên khối bột; đó cũng
sẽ là tác động của Nước Thiên Chúa trong lòng
nhân loại. Cũng như tình trạng nhỏ bé là một
điều kiện quan trọng để hạt cải
phát triển (c. 31), tình trạng giấu ẩn, hòa trộn
với bột là điều kiện thiết yếu
để cho men có thể tác động.
Động tác “vùi”
(“giấu”) men vào trong bột hẳn muốn gợi ý
đến tình trạng ẩn giấu của chân lý. Tình
trạng ẩn giấu của sự thật trong các
dụ ngôn (c. 35) và tình trạng ẩn giấu của kho báu
trong ruộng (c. 44) tương ứng với men bị
“vùi/giấu”. Hội Thánh có nhiệm vụ vén mở cho
thấy chân lý giấu ẩn bằng lời nói và việc
làm (10,26-27; x. 5,13-16). Khi làm như thế, Hội Thánh làm cho
thế giới “dậy men”.
* Tại sao nói
bằng Dụ ngôn? (34-35)
Tác giả Mt cắt
ngang diễn từ các dụ ngôn bằng cách đưa vào
một “bản tóm tắt” hoạt động rao giảng
của Đức Giêsu. “Người không nói gì với
họ mà không dùng dụ ngôn” (c. 34). Câu văn này
được TM Mc dùng để kết thúc “phân
đoạn” các dụ ngôn (x. Mc 4,33-34); được
đưa vào trong văn cảnh Mt, ta không hiểu rõ lý do
bao nhiêu. Rất có thể tác giả Mt đưa câu ấy
vào đây để ngưng một chút trong diễn từ
dài về các dụ ngôn và để đào sâu những nguyên
do thần học đã đưa Đức Giêsu
đến chỗ chuộng ngôn ngữ dụ ngôn hơn là
ngôn ngữ thông thường (x. c. 11). Sau đó, câu 35
với hai vế song song (c. 35b và 35c) giúp hiểu rằng
mục đích của Đức Giêsu là trình bày những gì
dược giấu kín. Cũng như ở 13,14-15, ở
đây lại xuất hiện mối bận tâm biện
giáo của Mt, đó là xác nhận thể văn dụ ngôn
bằng một chứng từ Kinh Thánh. Lần này ngài trích
Tv 78,2, trong đó mầu nhiệm tạo dựng
được kể dưới dạng các câu bí hiểm.
Tác giả Mt coi mọi bản văn Kinh Thánh Cựu
Ước có một giá trị ngôn sứ. Rõ ràng Kinh Thánh
đã tiên báo là Đấng Mêsia sẽ nói bằng dụ
ngôn! Tuy nhiên, dân chúng lại không hiểu những gì
Người đã nói. Chỉ các môn đệ mới
hiểu, nên bây giờ Người rút về nhà với các
ông. Thật ra, dụ ngôn Men là dụ ngôn cuối cùng
Đức Giêsu công bố từ trên thuyền cho dân chúng,
rồi sau đó Người về nhà và tiếp tục bài
giảng với các môn đệ (c. 36).
Vậy dân chúng ở
lại bên ngoài. Họ đã làm điều gì xấu
khiến Đức Giêsu phải quay lưng lại với
họ như thế? Dựa theo ngữ cảnh của Mt
13, thì chúng ta phải nói: họ không làm gì xấu cả.
Đây là cách tác giả báo trước những điều
sẽ xảy ra trong cuộc sống tương lai của
Đức Giêsu. Dân chúng sẽ đưa Đức Giêsu
đến thập giá, có nghĩa là họ sẽ liên
tục loại trừ các sứ giả cho đến khi
loại được cả vị Sứ Giả tối
cao.
* Dụ ngôn Cỏ
lùng được giải thích (36-43)
Đức Giêsu
bỏ đám đông đang nghe Người tại
điểm này và cùng với các môn đệ về nhà,
nơi xuất phát (x. 13,1). Nay Người giảng dạy
cho các môn đệ. Đời môn đệ là như
vậy: suốt đời, họ phải học với
“vị thầy duy nhất” là Đức Giêsu (x. 23,8). Tác
giả gọi bài này là “dụ ngôn các Cỏ lùng trong
ruộng” (hê parabolê tôn zizaniôn tou agrou) vì bài học nhắm
vào điểm này.
Đức Giêsu
đã giải nghĩa từng hình ảnh một. Danh
mục ở cc. 37-39 chuẩn bị cho phần áp dụng
ở cc. 40-43. Kẻ gieo hạt giống tốt là Con
Người. Đến c. 41, ta thấy Con Người
chính là vị Thẩm phán trần gian. Người nắm
trong tay không những công việc gieo giống, mà cả
việc thu hoạch và như thế là toàn thể lịch
sử thế giới. Trong TM Mt, Con Người là Chúa
tể xét xử, Người tháp tùng Hội Thánh suốt
hành trình xuyên qua tình trạng cô đơn, đau khổ,
để đi đến sự sống lại. Ruộng
là thế gian (chứ không phải là Hội Thánh; Hội
Thánh luôn hiện hữu chỉ trong sứ mạng
truyền giáo cho thế gian). Hạt giống tốt là con
cái Nước Trời (x. 8,12). Chúng ta không biết chính xác
“con cái Nước Trời” là ai, nhưng toàn thể TM I cho
thấy làm thế nào, thay vì dân Israel, “Dân ngoại” (ethnê)
mang hoa trái (x. 21,43) sẽ trở thành “con cái Nước
Trời”. Các cỏ lùng là “con cái Ác Thần”. Kẻ thù là ma
quỷ, nó vẫn đang hoạt động, như ở
13,19, trong lúc này. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ
gặt là các thiên thần của cuộc phán xét.
Sau những giải
thích chuẩn bị, bây giờ tác giả Mt diễn tả
mối quan tâm của ngài; ngài nhấn mạnh trên khía
cạnh tiêu cực. Cũng như chủ nhà sẽ thu gom
cỏ lùng lại vào lúc gặt và “lấy lửa
đốt đi” (x. 3,12), chuyện cũng sẽ xảy ra
như thế cho các con cái Ác Thần vào lúc tận thế.
Ở đây, trên mặt đất này, các sự việc
“trộn lẫn” với nhau: bên cạnh những
người tốt, có những kẻ xấu. Sự
gần kề này là một chướng kỳ. Các môn
đệ trong nhà phải để ý đừng thuộc
về “những kẻ làm gương mù gương
xấu” (skandala) và “những kẻ làm điều gian ác”
(anomia), đang có cả ở bên trong lẫn bên ngoài Hội
Thánh.
Thiên Chúa lại không
phải can thiệp, ngăn cản những kẻ xấu
hành động và chặn đứng tất cả
những lối xử sự bất công của họ sao?
Đây lại không phải là nhiệm vụ của
Đấng Mêsia: tách biệt người lành kẻ dữ
và thiết lập những tương quan vĩnh viễn
trong sáng sao (x. 3,12)? Chúng ta nhớ đến phản
ứng của Giacôbê và Gioan khi cả nhóm không
được một làng Samari tiếp đón: “Thầy có
muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống
thiêu huỷ chúng nó không?” (Lc 9,54). Đức Giêsu dùng dụ
ngôn để dạy cho loài người chúng ta biết
chấp nhận hoàn cảnh pha trộn này. Người
không có nhiệm vụ chia cắt rõ ràng và vĩnh viễn
người lành với người dữ. Người quy
tụ các môn đệ quanh Người và dạy cho họ
biết con đường của Người; như
Người, cả họ nữa, họ cũng phải
rảo qua con đường ấy trong thế giới
này.
Nếu trong cuộc
sống trần thế này, vẫn còn tình trạng gần
kề, chưa tách biệt, điều đó không có
nghĩa là hoàn cảnh này sẽ kéo dài mãi, là làm tốt làm
xấu thì cũng như nhau! Đức Giêsu cho biết,
số phận của người lành kẻ dữ sau này
sẽ hoàn toàn khác nhau. Những người tốt, vì
đã ra sức thi hành ý muốn của Thiên Chúa, sẽ
được đón vào trong Nước Trời và
thuộc về gia đình Thiên Chúa, sẽ được
Ngài nhìn nhận là con cái (x. 5,9). Họ sẽ
được sống trong ánh sáng và niềm vui chan hòa;
chính họ cũng sẽ chói chan hạnh phúc. Những kẻ
khác, vì đã không quan tâm đến thánh ý Thiên Chúa, đã
đi theo tính ích kỷ và còn muốn lôi kéo người thân
cận theo, sẽ bị loại khỏi cộng đoàn
này.
+ Kết luận
Xuyên qua hình ảnh
cỏ lùng, Đức Giêsu nói lên sự kiên nhẫn của
Thiên Chúa đối với loài người: về
phương diện thực vật, cỏ lùng không thể
biến thành lúa tốt, nhưng trên bình diện thiêng liêng,
kẻ xấu có thể trở thành người tốt,
nếu họ được người khác nêu
gương sáng, tác động để họ biết
vận dụng những ơn lành Thiên Chúa vẫn ban cho
họ.
Xuyên qua hình ảnh
hạt cải và nắm men, Đức Giêsu cho thấy
rằng một tình trạng khởi đầu không nổi
rõ không có nghĩa là kết thúc cũng như thế.
Chỉ đến cuối, khi cây cải đã lớn lên và
bột đã dậy men, người ta mới biết có
cái gì ẩn giấu trong hạt cải và men. Cũng
thế, Nước Trời (Thiên Chúa) trên mặt
đất đang hiện diện, không viên mãn và xán
lạn, nhưng trong sức mạnh dồi dào, và sẽ
tỏ rõ ra vào lúc kết thúc. Vậy, ai ước ao
thuộc về Đức Kitô, cần phải có một
tầm nhìn rộng rãi và kiên nhẫn.
Như vậy,
Nước Thiên Chúa đã khởi sự với công
việc loan báo Tin Mừng, nhưng tình trạng hiện nay
còn rất khiêm tốn (chưa đủ thuyết phục)
và không rõ ràng (người tốt kẻ xấu đang
lớn lên với nhau). Chỉ sau khi đã trải qua
một hành trình dài, trong tình trạng tranh tối tranh sáng,
Nước Thiên Chúa mới tỏ hiện rõ ràng là một
cuộc quy tụ toàn thể vũ trụ vào sống trong
bình an của Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Phương pháp
làm việc của con người và Thiên Chúa thật khác
nhau.
Tiêu chuẩn các đầy tớ nêu ra diễn tả
một khát vọng vẫn dày vò các người của Thiên
Chúa, như Giêrêmia, Gióp, những người nghèo của
Đức Chúa. Gioan Tẩy Giả cũng đã chia sẻ
mối bận tâm ấy khi giới thiệu Đấng
Mêsia đến sẽ làm việc quyết liệt: như
rìu đã đặt sẵn nơi gốc cây (x. Mt 3,10),
như nia đã sẵn sàng để rê lúa (x. Mt 3,11; Lc 3,17);
một phép rửa trong lửa đang chờ đợi
mọi người (x. Mt 3,11; Lc 3,16). Người ta cũng
tạo lập những nhóm “những người hoàn
hảo” tách khỏi những người khác: đó là
những người Pharisêu, “những người tách
biệt”, và những người Exêni ở Qumrân, “các con cái
ánh sáng”, “những người công chính”. Đây chính là
những đầy tớ của ông chủ trong dụ
ngôn. Tuy nhiên, vì có hiểu biết và kiên nhẫn vô biên, Thiên
Chúa đã và vẫn xử sự cách khác.
2. Thiên Chúa không
muốn triệt tiêu sự dữ, nghĩa là những
kẻ dữ, nhưng muốn họ sống còn và sống
chung với những người tốt. Hẳn là Ngài
hiểu tính hợp lý trong đề nghị của các
đầy tớ, nhưng Ngài đã phải xử sự
ngược đời, là vì cỏ lùng sống đan
quyện với lúa tốt, nên nếu nhổ cỏ lùng, thì
khó tránh được chuyện nhổ cả lúa tốt.
Với lại, nếu cỏ lùng không thể thành lúa
tốt (về thực vật học), kẻ xấu
lại có thể trở thành người tốt (trong đời
sống thiêng liêng). Sự hiểu biết và kiên nhẫn
của Thiên Chúa là nhằm cứu độ mọi
người. Đàng khác, sự xấu và sự thiện
đan quyện với nhau tinh vi đến nỗi không
dễ gì mà phân tách ra. Thật ra không phải là với
những cuộc tiêu diệt mà người ta xây dựng
được Nước Thiên Chúa, nhưng là với
sự kiên nhẫn và tin tưởng.
3. Những gì mà loài
người thấy như là một chướng kỳ
thật ra lại là một điều bí nhiệm nằm
trong chương trình Thiên Chúa: sự bé bỏng và yếu đuối
không gây phương hại mà đúng hơn lại tạo
điều kiện cho thành công tương lai. Nếu
Nước Thiên Chúa trở thành một định chế
tự thỏa mãn về mình và hết là một hạt
cải, thì Nước ấy thiếu mất điều
kiện tăng trưởng. Chỉ khi biết mình yếu
đuối, con người cậy dựa vào Thiên Chúa, con
người mới nên mạnh mẽ (x. 2 Cr 12,9). Các tín
hữu cần phải bỏ các điểm tựa và các
duyên cớ trần tục, trở thành nghèo khó, khiêm
nhường, yếu đuối, để Họi Thánh có
được những đặc tính như Đấng
Sáng Lập thần linh muốn cho có.
4. Dụ ngôn Men trong
bột khiến chúng ta nhớ đến một
phương pháp mục vụ mà các sứ giả Tin
Mừng đều nhớ: họ được
đề nghị sống âm thầm, khiêm tốn, nhỏ
bé, để có thể chuyển sức mạnh Tin Mừng
vào trong lòng thế giới và biến đổi thế
giới từ bên trong. Một tư tưởng khác
đến từ thư 1 Pr 1,1: “Tôi là Phêrô, Tông Đồ
của Đức Giêsu Kitô, kính gửi những
người được Thiên Chúa kén chọn, những
khách lữ hành đang sống tản mác trong các xứ”. Các
Kitô hữu sống tản mác, sống tình trạng diaspora.
Trong tiếng Hy Lạp, diaspora là hành động gieo
hạt: Vậy các Kitô hữu là hạt giống Thiên Chúa
gieo vào trong thế giới, để cuối cùng toàn
thế giới trở thành một cánh đồng của
Thiên Chúa, mang những hoa quả tốt lành.
|