Đường
đi phải đến
(Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình
Hiền)
Nhà văn quá
cố Xuân Vũ (1930-2004), một văn sĩ bộ
đội hồi chánh năm 1971 đã viết một
cuốn trường thiên hồi ký mang tựa đề
“ĐƯỜNG ĐI KHÔNG ĐẾN” mà nội dung
cốt yếu là làm sống lại những nổi bi
đát, thống khổ, man rợ tột cùng mà những người
cán binh cọng sản, trong đó có Xuân Vũ, đã
trải qua trên con đường mòn mang tên Hồ Chí Minh.
Trên cuộc hành trình “giải phóng miền Nam” cay nghiệt
đó, biết bao thanh niên, thiếu nữ đã vĩnh
viễn nằm lại giữa núi rừng heo hút, bao nhiêu cái
chết tức tửi đắng cay khi tuổi đời
còn thênh thang mộng ước, bao mối tình say
đắm ngọt ngào đành chia ly đứt gánh vì
một “rừng mơ” của
ảo tưởng và lầm lạc. Cho dù trong số ra
đi đó có đến được Miền Nam, thì tâm
hồn họ, cuộc đời họ cũng gần
như tan nát, mất hướng và thất vọng khi
nhận ra một lý tưởng bị đánh lừa,
một cuộc đời bị lãng phí. Và vì thế,
đối với Xuân Vũ, con đường giải
phóng đó, con đường cách
mạng đó lại là “ĐƯỜNG ĐI KHÔNG
ĐẾN”.
Thế nhưng hôm nay, Lời Chúa lại mách
bảo chúng ta rằng: có một con đường khác mang
tên LỜI CHÚA là một “ĐƯỜNG ĐI PHẢI
ĐẾN”.
Trước hết, Lời Chúa phải
được chúng ta tin nhận đó là Lời Hành
Động, Lời hiệu quả, Lời mang lại
ơn cứu độ, chứ không bao giờ là một
lời của gió thoảng mây bay, lời của hoang vu
trống rỗng.
Để khẳng định chân lý nầy,
chúng ta hãy nhớ lại lời của sứ ngôn Isaia trong
Bài đọc 1 vừa được công bố:
“Cũng như mưa tuyết sa xuống
từ trời không trở về trời nếu chưa
thấm xuống đât, chưa làm cho đất…đâm
chồi nẩy lộc…thì lời Ta cũng vậy, một
khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không về với
Ta, nếu chưa đạt kết quả, …”.
Và không chỉ “xuất phát từ miệng Ta”
như một âm thanh, như một tiếng nói, cho dù là
tiếng nói sáng tạo: “Thiên Chúa phán: - Phải có ánh sáng.
Liền có ánh sáng” (St 1,3), hay tiếng nói
tình tự vỗ về của người yêu: "Bởi
thế, nầy Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào
sa mạc để cùng nó thổ lộ tâm tình" (Hs 2,16),
mà là một sự “xuất phát” để “trở nên
người phàm và cư ngụ giữa chúng ta...” (Ga 1,14).
Với cuộc mặc khải tối
hậu nầy, quả thật Lời Chúa đã cô
đọng thành xương, thành thịt, thành
người, thành “ngôi vị” và là Đấng tái tạo,
cứu độ thế giới.
Đức Kitô chính là Ngôi Lời Nhập
Thể, là Lời vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm
người, là Lời loan báo tin Mừng bình an, là Lời
Chân lý, là Lời đem lại sự sống đời
đời. Ngài là Lời nhưng Ngài cũng chính là người
đi rao giảng Lời, là Người công bố Tin
Mừng Nước Thiên Chúa, là Người mang hạt
giống chân lý tình yêu và cứu độ gieo vào mảnh
đất trần gian. Ý nghĩa đầu tiên mà Chúa Giêsu
muốn nhắm tới trong dụ ngôn “Gieo Giống”
phải chăng là muốn cho dân Ít-ra-en ngày xưa và chúng ta
hôm nay xác tín rằng: Nước trời chắc chắn
sẽ đến và “Lời loan báo về Nước
Trời” chắc chắn sẽ sinh hoa kết trái, cho dù
phải kinh qua khó khăn thử thách, vất vả
hiểm nguy, chẳng khác nào người gieo giống
phải đối diện với những “sỏi đá
khô cằn, những bụi bờ gai góc, tưởng
đâu hạt giống sẽ bị vùi dập, nghiền
nát, và người gieo phải thất bại trắng tay.
Nhưng rồi, mùa gặt bội thu
lại đến mang theo vỡ lỡ vui mừng, “hạt
một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba
mươi…”
Phải chăng, Chúa Giêsu
muốn ngụ ý trong dụ ngôn nầy là chính cuộc
đời và sứ vụ của mình? Cũng có
thể lắm đấy chứ! Ngay từ phút giây
Nhập Thể vào mảnh đất trần gian, Lời
Thiên Chúa đã chẳng đụng ngay con đường
Bêlem sỏi đá, khô chồi đến độ, mọi
cánh cửa nơi đó đều khép chặt để
Ngài phải sinh hạ trong chuồng lừa máng cỏ
đó sao! và rồi, trái tim nhân loại đâu có phải lúc
nào cũng trổ hoa để mĩm cười đón
đợi Đấng Cứu Thế. Hêrôđê, Philatô,
những người biệt phái, các ông tư tế
của đền thờ không chỉ là những thế
lực có thể bóp nát chính bản thân Ngài, nhưng còn có
đủ quyền uy để bóp ngặt không để
cho một mầm mống nào của chân lý do Ngài rao
giảng được tồn tại, phát sinh. Trong
suốt ba năm dãi dầu sương gió, từ Bắc
xuống Nam,
từ Đông sang Tây, từ duyên hải Biển Hồ
đế giữa lòng hoang mạc…Ngài đã cất công tung gieo hạt giống Lời Chúa. Nhưng
kìa, tất cả gần như sụp đổ tan tành vào
buổi trưa thứ Sáu: “Đóng đinh nó đi, đóng
đinh nó đi…Xin tha Baraba, đóng đinh Giêsu vào thập
giá…”. Vâng, có lẽ do áp lực của
miếng cơm manh áo, của vị thế chính trị,
của nhưng “lo toan vặt vãnh đời thường”,
mà gai góc đã phủ kín mảnh đất tâm hồn
của đám dân vô tội ấy để Lời chân lý
họ đã nghe và thán phục hôm nào “Người nầy
dạy như Đấng có uy quyền”, đã “đội
nón ra đi”, đã bị bóp nghẹt từ trong trứng
nước! Phải chăng bi kịch
thập giá là điểm hội tụ của tất
cả những gì bi đát nhất của thân phận
người gieo giống, của cuộc đời làm ngôn
sứ của Chúa Giêsu.
Nhưng tiếng nói cuối cùng
lại không là sự chết và đích điểm của
Nước Trời lại không phải nấm mồ.
Hạt giống Nước trời mà Chúa Giêsu gieo vào
giữa lòng thế giới đã mục nát đi cùng
với 33 năm cuộc đời nhập thể, cùng
với cái chết đau thương của Ngài, đã
không luống công vô ích. Vào bình minh ngày Thứ Nhất Trong
tuần, hạt giống bị vùi dập Kitô đã oai hùng
chỗi dậy đánh bại thần chết và tội
lỗi để mang nhân loại đi lên một lộ
trình mới: lộ trình của phục sinh, tin yêu và hy
vọng. Tất cả đã từ từ
vươn dậy. Để rồi
xuyên qua bao thăng trầm dâu bể của lịch sử,
hôm nay đã có một mùa lúa tốt tươi trên cánh
đồng thế giới và hứa hẹn sẽ vàng đồng
đầy kho nứt lẫm trong ngày thế mạt.
Và đó là con đường của Lời
suốt 2000 năm nay, kể từ khi Hạt Giống Ngôi
Lời chấp nhận chịu mục nát trên đồi
Can-vê và muôn thế hệ Tông Đồ, chứng nhân
nối tiếp cùng chấp nhận theo Đức Ki-tô làm
“hạt lúa mì” mục nát đi trên cánh đồng thế
giới.
Để đức tin,
để ơn cứu độ được
đến với muôn người, muôn dân tộc, cần
có những con người gieo giống và những hạt
giống tốt được gieo.
Vì thế, nếu Lời Chúa hôm nay không cho
phép chúng ta đánh mất niềm tin yêu và hy vọng trong
sứ vụ loan báo Tin Mừng ; thì
đồng thời, Lời Chúa cũng tra vấn chúng ta,
thách thức chúng ta: Chính bản thân tôi đã đón nhận
Lời Chúa thế nào? Lời Chúa đã
thật sự phát sinh hiệu quả ra sao trong mảnh
đất của đời tôi? Bởi vì Lời
Thiên Chúa là Lời sống động kia
mà! Lời không chỉ là ngôn từ mà còn
phải trở thành ngôn ngữ của cuộc sống.
Nói cách khác, phải biến
cuộc sống trở nên lời chứng sống
động của Lời Chúa. Phải cất đi
những góc gai sỏi đá và cày xới liên tục
bằng hy sinh nguyện cầu để biến cuộc
đời thành mảnh đất mở màu cho Lời Chúa
kết trái đơm hoa.
Nếu Phêrô, Gioan không can đảm “nghe
Lời Thiên Chúa hơn lời người phàm” (Cv 4,18), cho dù phải đối diện với
đòn vọt ngục tù và cả cái chết thì làm sao có
được Hội Thánh hôm nay? Nếu Phaolô không xác tín
mạnh mẽ rằng: “khốn thân tôi, nếu tôi không rao
giảng Tin Mừng”, thì làm sao một phần ban nhân
loại hôm nay biết được Đức Kitô là ai và
Tin Mừng cứu rỗi là gì? Cũng thế, nếu không
có những Augustinô, Phanxicô Xavie, những Têrêsa hài
đồng, những Anrê Phú Yên…; hay mới đây, trong
thời đại nầy, những người như
Mẹ Têrêsa Calcutta, những vị giáo hàng thánh thiện
như hai Thánh giáo hoàng Gioan 23 và Gioan-Phaolô 2, thì làm sao
vườn hoa Giáo Hội có được mùa lúa bội
thu như hôm nay? Bên cạnh những tượng đài
vĩ đại đó, trong Hội Thánh hôm qua và hôm nay còn có
bao nhiêu “mảnh đất tâm hồn” âm thầm nhưng
vĩ đại, như cô gái Vêrônica phung cùi người Camêrun,
cho dù mù mắt, cùi tay, cụt giò, vẫn vui tươi
biến cuộc đời thành hy lễ để Lời
Chúa kết trái đơm bông nơi bao nhiêu anh chị em
thương tật cùi hủi khác.
Và như thế chúng ta xác tín rằng, một
khi đã mang Lời Chúa lên đường, một khi
đã trở thành người gieo giống, .và một khi
đã đón nhận hạt giống Lời Chúa với
một cỏi lòng “đất tốt”, thì dứt khóa
đường đi của Lời Chúa là “đường
đi phải đến”, phải đến để
mảnh đất trần gian nầy bớt đi
những cỏ lùng hoang dại và trổ sinh những hoa
trái tốt lành.
|