Siêu thoát – Lm. Đỗ Vân
Lực
Đức Giêsu có phải là một mâu
thuẫn lớn nhất trong cuộc đời này không? Một
đàng, Người nêu gương và kêu gọi mọi
người hi sinh chính bản thân. Một đàng,
Người lại muốn biến bản thân thành trung tâm
cuộc sống con người. Thế
nghĩa là gì?
THEO
THẦY
Không gì thân thiết với con người
bằng tương quan gia đình. Chính
từ gia đình, con người hiện hữu và phát
triển. Càng sống dưới mái
ấm gia đình, con người càng đi sâu vào
tương quan tình cảm và nội tâm. Thế
nhưng trước những đòi hỏi Tin Mừng, các
giá trị đó trở thành tương đối, vì “Nước
Trời đã đến gần,” (Mt 10:7) và “Triều
Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” (Lc 17:21) Không có gì cao trọng hơn Nước Trời.
Nước Trời là một giá trị
tuyệt đối, đến nỗi người ta
phải “bán tất cả những gì mình có” (M6 13:44.46)
mới mua sắm nổi. Nước
Trời là tất cả ý nghĩa và giá trị cuộc
đời. Quả thực, “chính vì
Nước Thiên Chúa mà anh em chịu đau khổ.” (1 Tx 1:5)
Để mua được một giá
trị siêu việt đó, người ta phải hi sinh
cả tương quan gia đình. Tương quan gia
đình vượt lên trên “những gì mình có” và rất gần
“những gì mình là”, tức là chính bản thân. So
với Nước Trời, bản thân cũng là một giá
trị quá nhỏ. Nhưng giá trị nhỏ bé này
vẫn là một thực tại vô cùng quí giá không dễ gì
đánh đổi. Chỉ đức tin mới thấy
được chiều kích vĩ
đại của Nước Trời và mới mạc khải
cho ta biết Nước Trời chính là “Đấng Kitô,
Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16:16) “Người
cũng là đầu của thân thể, nghĩa là
đầu của Hội thánh,” (Cl 1:18) và “chúng ta là bộ
phận trong thân thể của Người.” (Ep 5:30) Chính vì
thế, Đức Giêsu mới nói: “Ai liều mất
mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy
được.” (Mt 10:39) Cái tôi nhỏ bé hòa nhập vào cái
tôi vĩ đại. Không những không
mất mát, mà còn tìm thấy chính mình trong một chiều
kích lớn lao và một giá trị
tuyệt vời hơn.
Nhưng trong cuộc sống, nhiều lúc hi
sinh gần như đồng nghĩa với đổi
chác.
Người ta hi sinh là để tìm lại được
cái gì cân xứng hoặc trổi vượt hơn.
Thật vậy, những hi sinh của “một phụ
nữ giàu sang” (2 V4:8) tại Sunêm cho ngôn sứ Eâlisa đã
không uổng phí. Vì hiếu khách, vợ chồng đã
đặc biệt dành nơi ăn
chốn ở xứng đáng cho ngôn sứ Eâlisa, “là một
người của Thiên Chúa, là một vị thánh.” (2 V4:9) Phần thưởng của ngôn sứ thật
trọng hậu. Không những bà được ông
bảo đảm có con trai (x. 2 V 4:8-17). Sau
này, khi con bà chết, ông cũng đã làm cho cậu sống
lại và trả lại cho bà (x. 2 V 4:31-37). Như
thế, chính khi hi sinh thời giờ, sức lực và
tiền của cho ngôn sứ, bà đã được
đền bù cân xứng.
Nếu
một ngôn sứ còn đem lại được phần
thưởng lớn lao như thế,
Đức Giêsu sẽ có phần thưởng nào cho
người môn đệ? Khi chạm tới
mạng sống, mọi hi sinh đều phải khựng
lại, mọi tính toán đều phải chấm dứt.
Thế mà Đức Giêsu dám đòi hỏi
người môn đệ phải hi sinh chính bản thân là
giá trị đáng quí nhất trên đời. Đó là một đòi hỏi tuyệt đối.
Dĩ nhiên hi sinh đó sẽ được đền bù
cân xứng. Đúng hơn còn vượt quá
điều người ta mong đợi. Đức
Giêsu khẳng quyết: “Phàm ai bỏ nhà cửa, anh em,
chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh
Thầy, thì sẽ được gập bội và còn
được sự sống đời đời làm gia
nghiệp.” (Mt 19:29; Mc 10:28-30; Lc 18:28-30) Bỏ đi
những liên hệ tình cảm để đi sâu vào
nguồn mạch tình yêu vô cùng lớn lao
là Thiên Chúa, còn gì lợi hơn? Một khi
đã đón nhận được nguồn tình yêu đó,
ngay từ đời này, người môn đệ đã
được quan tâm và che chở. Thực
tế, “khi chúng ta được dìm vào nước thanh
tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là
chúng ta được dìm trong cái chết của
Người,” (Rm 6:3) để “chúng ta cũng
được sống một đời sống mới
như Người nhờ quyền năng vinh hiển
của Chúa Cha.” (Rm 6:7) Đời sống mới
“đầy tràn ân sủng và sự
thật.” (Ga 1:14) Nói khác, khi theo
Đức Giêsu, người môn đệ sẽ “trở
nên con Thiên Chúa” (Ga 1:12), và hoàn toàn
được giải thoát (x. Ga 8:36). Đó
là phần thưởng dành cho những ai “theo Thầy” và
“đón tiếp Thầy”. Từ đó,
cuộc sống tự nhiên trở thành một chứng
từ mãnh liệt trước mắt mọi người.
Thực ra, khi kêu gọi môn đệ “theo
Thầy” và “liều mất mạng sống mình vì Thầy”,
Đức Giêsu không có ý thổi phồng cái tôi của mình. Hi sinh cái tôi
để đánh đổi lấy một cái tôi khác, dù cái
tôi này có vĩ đại tới đâu,
cũng chỉ là chuyện “đánh bùn sang ao”. Chính
Đức Giêsu cũng phải hi sinh cái tôi để làm theo thánh ý Chúa Cha. “Thực vậy, Đức
Kitô đã không chiều theo sở thích
của mình.” (Rm 15:3) Trong vườn Cây Dầu,
Người đã “xin đừng theo ý
con, mà xin theo ý Cha.” (Mt 26:39) Ý Cha đã thực thi
hoàn toàn trong cái chết của Đức Giêsu. Như vậy, Người đã từ bỏ
chính mình. Muốn “theo Thầy”, môn
đệ cũng “phải từ bỏ chính mình.” (Lc 9:23)
Xét cho cùng, khi sống kiếp phàm trần,
Đức Giêsu cũng chấp nhận chỉ một mình
Chúa Cha mới là nguyên ủy tuyệt đối. Từ
lời nói tới việc làm, Đức Giêsu luôn qui
hướng về Chúa Cha (x. Ga 14:10). Bởi đấy, nếu “vì
yêu mến Thầy” (Ga 16:27) mà anh
em đã “liều mất mạng sống mình vì Thầy” (Mt 10:39) thì “chính Chúa Cha
sẽ yêu mến anh em.” (Ga 16:27) Nơi
đỉnh cao tình yêu đó, con người có thể
vượt lên trên tất cả để đạt
tới “một cái gì tuyệt đối, tột
đỉnh và nền tảng.” (ĐGH Gioan Phaolô II:
Zenit 24/06/2002) Như thế, “theo
Thầy” không có nghĩa là đi từ hư vô này sang hư
vô khác, nhưng tới một hiện hữu tuyệt
đối là chính Thiên Chúa. Thực vậy, “ai
đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã
sai Thầy.” (Mt 10:40) Đức Giêsu còn nhấn
mạnh: “Tôi và Chúa Cha là một.” (Ga 10:30) Không
những Người hiệp nhất với Chúa Cha,
nhưng còn đồng hóa với các môn đệ (x. Mt 10:40) và người nghèo
(x. Mt 26:40). Như vậy, khi “theo Thầy”,
người môn đệ biết mình theo ai và phải làm
gì.
SIÊU
THOÁT
Càng từ bỏ càng siêu thoát. Nhân loại hôm nay
đang cần những con người biết từ
bỏ mọi sự để tìm chân lý. Nói
khác, con người siêu thoát là một nhu cầu cấp
thiết nhất cho sự sống còn của nhân loại.
Nếu chết dí dưới đống
dữ kiện khoa học và kỹ thuật, con
người sẽ không tìm được hướng
giải thoát cho chính cuộc sống. Nhân
loại hôm nay đang căng thẳng vì lo âu mọi
mặt. Chính vì thế, Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II đã thúc đẩy các Kitô hữu hãy
cống hiến cho những người đang ưu
tư đau khổ “những câu giải đáp của chân
lý và hi vọng” bằng cách trình bày cho họ một
triết lý siêu việt (Zenit 24/06/2002). Triết lý đó
không đến với những con người suốt ngày
cắm đầu vào những đống dữ kiện
khổng lồ và chết ngộp trong đời sống
dư thừa vật chất. “Song song với những khám
phá khoa học lạ lùng và những tiến bộ kỹ
thuật kỳ diệu, chúng ta đang chứng kiến hai
mất mát lớn: mất mát Thiên Chúa và hiện hữu,
mất mát linh hồn và nhân phẩm. Đôi khi
sự kiện này sinh ra những hoàn cảnh khó khăn
cần đến những câu trả lời trong chân lý và
hi vọng.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 24/06/2002) Nếu không từ bỏ
chính mình, con người sẽ không bao giờ tìm thấy
những câu trả lời đó và sẽ không bao giờ
khám phá thấy mình là ai. Quả thực, “văn hóa ngày
nay nói và biết nhiều về con người, nhưng
hình như không biết con người là ai. Thực
vậy, con người chỉ có thể hiểu biết
trọn vẹn về chính mình trong ánh sáng Thiên Chúa. Con
người là “hình ảnh Thiên Chúa – được tình yêu
tạo dựng và được an bài
sống hiệp thông đời đời với Thiên
Chúa.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 24/06/2002) Hình ảnh này
chỉ tìm thấy nơi Đức Giêsu và những ai
đang“theo Thầy”.
|