HIỆP SỐNG TIN
MỪNG
CHÚA NHẬT 13
THƯỜNG NIÊN A
2V
4,8-11.14-16a; Rm 6,3-4.8-11; Mt 10,37-42
CHẤP NHẬN VÁC
THẬP GIÁ THEO CHÚA ĐỂ SỐNG VUI
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN
MỪNG: Mt 10,37-42
(37) “Ai yêu cha hay yêu mẹ
hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai
hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với
Thầy. (38) Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không
xứng với Thầy.
(39) Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất.
Còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì
sẽ tìm thấy được. (40) Ai đón tiếp anh
em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là
đón tiếp Đấng đã sai Thầy. (41) Ai đón
tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn
sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng
dành cho bậc ngôn sứ : Ai đón tiếp một
người công chính, vì người ấy là người
công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng
dành cho bậc công chính. (42)
Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù
chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là
môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh
em : Người đó sẽ không mất phần
thưởng đâu”.
2.
Ý CHÍNH: Người môn
đệ phải đặt tình yêu Chúa Giê-su lên trên mọi
tương quan tình cảm gia đình ruột thịt.
Những ai sẵn sàng đón nhận gian khổ thập giá
để đi theo và cùng chết với Đức Giê-su
thì sẽ tìm lại được sự sống
đời đời cho mình sau này. Đức Giê-su tự
đồng hóa với các thừa sai và hứa sau này
những người sẵn sàng đón tiếp họ,
sẽ được Thiên Chúa ban thưởng bội
hậu trên trời.
3.CHÚ THÍCH:
- C
37: + Ai yêu cha hay yêu mẹ
hơn Thầy, thì không xứng với Thầy… : Ở đây Đức Giê-su tỏ ý
“ghen tương” giống như sự ghen yêu của
Đức Chúa đối với dân Ít-ra-en trong thời
Cựu Ước (x. Đnl 29,17-19 ; 32,16-21). Đức
Giê-su không chấp nhận bất cứ tình yêu nào cạnh
tranh với tình yêu phải được dành riêng cho
Người. Kẻ nào muốn theo làm môn đệ
Đức Giê-su mà còn quá quyến luyến với gia
đình, thì chẳng xứng đáng với tình yêu của
Người. Kẻ nào không nhìn nhận sự tối
thượng của Người cũng không thể làm môn
đệ của Người được. Sở dĩ
Người đòi hỏi trung thành tuyệt đối
như vậy, vì Người chính là Thiên Chúa làm
người, đến để chịu chết
đền tội thay cho loài người.
HỎI
: Với đòi hỏi như
thế, phải chăng đi theo Chúa là phải hoàn toàn
từ bỏ mọi liên hệ gia đình ruột thịt,
có thể bị người đời kết tội là
bất hiếu ?
ĐÁP
: Thực ra không phải như vậy. Vì chính Đức
Giê-su là một người con hiếu thảo :
Người vâng lời cha mẹ trong suốt thời gian
ẩn dật tại Na-da-rét (x. Lc 2,51). Dù “giờ” chưa
tới, nhưng Người sẵn sàng nghe lời cầu
bầu của Đức Mẹ, để làm phép lạ
đầu tiên giúp đỡ đôi tân hôn là hóa nước
thành rượu ngon (x. Ga 2,4.5-8). Trước khi tắt
thở trên cây thập giá, Người trối Đức
Mẹ làm Mẹ của môn đệ Gio-an, để ông
đem ngài về nhà mình mà phụng dưỡng thay cho
Người (x. Ga 19,25-27). Người dạy người
ta về sự thực hành cách cụ thể giới
răn “Phải thảo kính cha mẹ”, trái với lời
dạy lỗi bổn phận hiếu thảo của các
luật sĩ (x. Mc 7,10-13). Nhưng đối với
Đức Giê-su, sự vâng lời cha mẹ phải
được đặt sau Thánh Ý Chúa Cha (x. Lc 2,49). Mẹ
và anh em của Người chính là những ai thi hành ý
muốn của Thiên Chúa (x. Mc 3,33-35). Trong câu này, Đức
Giê-su chỉ muốn nói rằng : khi cần phải
chọn một trong hai tình yêu dành cho cha mẹ và dành cho Đức
Giê-su, thì môn đệ phải biết đặt tình yêu
trung thành với Người trên tình yêu dành cho cha mẹ.
- C
38: + Ai không vác thập giá mình mà
theo Thầy, thì không xứng với Thầy : Lúc
đầu có lẽ các môn đệ đi theo Đức
Giê-su do muốn được lợi lộc vật
chất (x. Mt 19,27-30), được địa vị cao
khi Người lên làm vua (x. Mt 18,1-4). Nhưng Người
lại không chiều theo ý họ, mà đòi họ phải
đi con đường hẹp, leo dốc và đầy
gai chông, ít người chịu theo (x. Mt 7,13-14). Đó là
đường “từ bỏ mình, vác thập gia mình hàng
ngày mà theo chân Người” (x. Mt 16,24).
- C
39: + Ai giữ lấy mạng
sống mình, thì sẽ mất… : Giữa hai sự sống tự nhiên và
siêu nhiên, thì môn đồ phải biết chọn sự
sống siêu nhiên. Nếu họ chỉ lo tìm sự sống
thân xác, đến nỗi từ chối Chúa để
khỏi bị giết chết, thì họ sẽ bị
mất sự sống siêu nhiên ở đời sau.
Ngược lại, nếu họ bằng lòng chịu
chết vì đức tin, thì sẽ được Chúa ban
lại sự sống siêu nhiên sau này.
- C
40: + Ai đón tiếp anh em là
đón tiếp Thầy…: Ở
đây Đức Giê-su áp dụng một nguyên tắc thông
thường về ngoại giao là : “Kẻ được
sai đi đồng hóa với người đã sai mình”.
Đón tiếp môn đệ là đón tiếp Đức
Giê-su, cũng là đón tiếp chính Thiên Chúa là Đấng
đã sai Người. Sự đón tiếp ở đây là
phải sẵn sàng đón nhận Tin Mừng do các tông
đồ thừa sai rao giảng.
- C 41: +
Ai đón tiếp một ngôn
sứ… một người công chính : Có
người nghĩ rằng : Ngôn sứ và công chính
đồng nghĩa với tông đồ, nên ai tiếp
đón các tông đồ với danh nghĩa là ngôn sứ và
người công chính, thì sẽ được phần
thưởng của các ngài. Nhưng một số các nhà chú
giải hiện nay lại cho rằng : Thời Giáo hội
sơ khai, chức vụ ngôn sứ khác với chức vụ
tông đồ, còn người công chính thì không phải
chức vụ, nhưng là người có lối sống
công bình và ngay chính, được cộng đoàn kính
trọng, như ông Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a
người công chính (x. Mt 1,19), ông Giu-se hay Ba-sáp-ba, biệt
danh Rô-ma là Gút-tô, nghĩa là công chính (x. Cv 1,23). + Thì sẽ được lãnh
phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ… cho bậc
công chính : Đức Giêsu áp dụng nguyên tắc
: “Người được sai đi đồng hóa
với Đấng sai mình”, để nói rằng : kẻ
đón tiếp các ngôn sứ và người công chính cũng
sẽ được phần thưởng giống như
phần thưởng mà các bậc ngôn sứ và người
công chính sẽ được, là sự sống và
được sự sống đời đời.
-
C 42: + Ai cho một trong
những kẻ bé nhỏ này… : Kẻ bé nhỏ đây
ám chỉ các môn đệ của Đức Giê-su là tông
đồ thừa sai. + Người
đó sẽ không mất phần thưởng đâu :
Đức Giê-su hứa sẽ ban thưởng Nước
Trời cho những ai thành tâm cộng tác vào sứ mệnh
truyền giáo của các môn đệ, thì cũng sẽ
được thưởng giống như các ngài sẽ
được ở đời sau.
II. SỐNG LỜI CHÚA :
1. LỜI
CHÚA: Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không
xứng với Thầy (Mt 10,38).
2. CÂU
CHUYỆN:
1) CHẤP NHẬN
THẬP GIÁ ĐỂ SỐNG VUI.
Có
một thiếu nữ kia trẻ đẹp và là con một
gia đình quý tộc ở Ái Nhĩ Lan. Tuy sống trong
cảnh giàu sang, nhưng cô lại muốn sống
đời thánh hiến cho Chúa. Khi tới tuổi
trưởng thành, cô từ chối khi các chàng trai quý
tộc đến dạm hỏi, và được cha
mẹ cho phép, cô tìm đến một đan viện có
lối sống nhiệm nhặt khắc khổ để
xin được dâng mình cho Chúa. Mẹ bề trên thấy
cô vừa trẻ đẹp, lại vừa là con nhà quyền
quý giàu có, nên chưa dám nhận ngay. Bà muốn thử thách
ơn gọi của cô nên đã cố ý trình bày những
luật lệ khắt khe của đan viện về
nhiệm vụ cầu nguyện và lao động nhiều
giờ mỗi ngày. Nghe xong, cô gái giữ im lặng như
suy nghĩ. Một lát sau, bà bề trên hỏi tiếp : “Bây
giờ con còn muốn dâng mình cho Chúa nữa thôi ?”. Cô đáp
: “Thưa mẹ, con chỉ còn một thắc mắc này là
: Không biết trong tu viện có nhiều cây thánh giá không ?”.
Mẹ bề trên trả lời : “Con đừng lo.
Khắp nơi trong nhà, không chỗ nào là không có thánh giá
cả”. Bấy giờ cô gái tươi nét mặt và nói :
“Thế thì thưa mẹ, con sẵn sàng xin vào tu viện, vì
con chắc sẽ không gặp gì khó khăn cả. Bởi vì
theo con nghĩ : Nếu mọi nơi mọi lúc con
đều nhìn thấy thánh giá Chúa, đều thấy
Người đang cùng chịu đau khổ với con,
thì con hy vọng có thể chịu đựng
được mọi đau khổ”.
2) CHU TOÀN BỔN PHẬN ĐỐI
VỚI GIA ĐÌNH TRƯỚC KHI ĐI THEO CHÚA:
Vào năm 1994 Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
đã tôn phong chân phước cho chị Mác-đa-la Mô-ra-nô,
là một nữ tu thuộc dòng Đức Mẹ Phù Hộ.
Ngay từ thuở niên thiếu, Mác-đa-la đã phải
nếm mùi đau khổ: Chỉ trong một tháng,
người cha và chị cả trụ cột nuôi gia
đình lần lượt bị chết, khiến cho bà
mẹ và bốn đứa con thơ dại hết sức
lo lắng cho tương lai gia đình.
Lúc đó em Mác-đa-la mới được
8 tuổi, nhưng đã tỏ ra khôn ngoan và chín chắn. Thấy
mẹ lo buồn, em thường an ủi mẹ: “Mẹ đừng
khóc nữa, chẳng bao lâu con sẽ khôn lớn và con
hứa sẽ giúp mẹ thật nhiều như bố và
chị Phanxica đã giúp mẹ vậy”. Nhưng không
phải đợi tới lúc khôn lớn mà ngay từ lúc
đó, vì nhu cầu và hoàn cảnh khó khăn của gia
đình, Mác-đa-la đã bỏ học để ngồi vào
guồng tơ dệt chỉ mà chị Phanxica đã làm
để kiếm tiền hằng ngày nuôi gia đình.
Một hôm, tình cờ người bác họ
là cha Bandenla đến chơi và khi biết hoàn cảnh
của Mác-đa-la, cha đã hứa phụ giúp nhu cầu
vật chất của gia đình và giúp học phí sách
vở cho Mác-đa-la đến trường học. Sau
hơn mười năm chăm chỉ đèn sách, chị
đã tốt nghiệp và trở thành một giáo viên
giỏi dạy ở trường làng để phụ
giúp gia đình. Suốt 16 năm trời, chị đã
giữ lời hứa với mẹ, chuyên cần làm
việc và âm thầm dành dụm. Đến ngày sinh nhật
thứ 30, Mác-đa-la đã dẫn mẹ đến xem
mảnh đất với căn nhà và khu vườn mà mẹ
hằng mong ước. Chị âu yếm thưa với
mẹ: “Thưa mẹ, đây là món quà con tặng mẹ, con
chỉ xin mẹ cho phép con được tận hiến
cuộc đời còn lại để theo ơn Chúa kêu
gọi phụng sự Người”.
Quyết định của Mác-đa-la
đã gây đau khổ nhiều cho mẹ chị, cho cha
xứ, bạn bè và các phụ huynh học sinh của
chị, vì họ mất đi một người con
hiếu thảo, một người bạn tốt,
một giáo viên gương mẫu, một người giáo
dân nhiệt thành việc tông đồ. Ngày chia ly không
khỏi ngậm ngùi đau xót, nhưng chị đã tìm
được sức mạnh nơi tình yêu và lời Chúa
phán: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng
với thầy”. Đồng thời chị cũng
được sự an ủi vì tin vào lời Chúa đã
hứa: “Quả thật, Thầy bảo cho anh em, không ai
bỏ nhà cửa, cha mẹ, vợ con, anh chị em vì
nước Thiên Chúa mà lại chẳng lãnh nhận gấp
trăm ở đời này và sẽ được
sống đời sau”. Thật vậy, lời hứa
ấy đã thể hiện qua suốt 30 năm sống
đời tận hiến mà trong đó, hơn 25 năm
hăng say với sứ mệnh tông đồ giữa
giới trẻ nghèo khổ và bị bỏ rơi tại
đảo Xi-xi-li-a. Cuối cùng chị đã
được Hội Thánh tôn phong lên bậc chân
phước để mọi người tôn kính và học
tập noi gương.
3) AI KHÔNG ĐÓN TIẾP THA NHÂN LÀ ĐÃ
TỪ CHỐI ĐÓN CHÍNH CHÚA GIÊ-SU:
Tiểu bang Minnesota ở phía trung
bắc nước Mỹ, giáp với Canada, vào mùa đông
thường có những trận bão tuyết và nhiệt
độ tụt xuống -30 hay -40 độ âm Farenheit. Vào
một đêm bão tuyết, chiếc xe hơi của
người phụ nữ bị chết máy trên
đường tới Rochester. Chị biết rằng
sẽ bị chết cóng nếu cứ ngồi lại
ở trong xe. Tuy là vùng miền quê, nhưng trên trục
lộ chính, cũng có một số nhà dọc theo
đường lộ. Chị đã đến gõ cửa lần
lượt hơn một chục căn nhà, nhưng
chẳng có ai chịu ra mở cửa. Sau cùng, có một
người lái xe ngang qua thấy chị nằm gục bên
vệ đường bèn xuống xe đưa chị vào
nhà thương cấp cứu. Chị đã được
cứu sống, nhưng tất cả các ngón tay, ngón chân và
một bàn chân đã bị hoại tử vì chịu giá
lạnh trong một thời gian quá lâu.
Có điều đáng nói là các căn nhà
chị đến gõ cửa đêm hôm ấy, mọi
người đều ở trong nhà và đều nghe có tiếng
gõ cửa. Mọi người đều là các tín hữu
sống tại vùng quê hiền hòa, nhưng không một ai chịu
ra mở cửa, vì sợ có thể sẽ bị kẻ cướp
vào nhà trấn lột !
4) AI LIỀU MẤT MẠNG SỐNG
MÌNH VÌ THẦY THÌ SẼ TÌM THẤY ĐƯỢC:
Vào một sáng mùa đông tuyết
lạnh, SADHU và một người bạn cùng nhau đi du
lịch qua một miền núi phía Bắc Ấn Độ.
Thình lình một cơn bão tuyết ào ào đổ tới,
gió lạnh gào thét bên tai họ, khiến họ phải rất
vất vả để chống trả với cơn bão
tuyết.
Bấy giờ họ thấy một
người đàn ông bị lạnh cóng đang nằm thoi
thóp bên đường chờ chết. Sadhu muốn dừng
lại cứu giúp người gặp nạn, nhưng anh
bạn kia lại không đồng ý vì cho rằng nguyên việc làm sao để cứu
mạng mình lúc này cũng đã khó khăn vất vả
lắm rồi, và anh ta cương quyết bỏ đi. Chạnh
lòng xót thương, Sadhu ở lại bên kẻ bất
hạnh, xoa nóng tay chân cho người sống dở
chết dở ấy. Sau đó với sức lực còn
lại, Sadhu cố gắng cõng anh ta trên lưng và tiếp
tục đi qua vùng bị bão tuyết. Hơi ấm
của hai thân thể hòa quyện lấy nhau khiến
người kia dần hồi sinh và cả hai dìu nhau đi
tiếp. Đi khoảng mươi dặm, cả hai kinh
ngạc khi nhìn thấy một xác chết vì bị lạnh
cóng đang nằm bên vệ đường. Họ càng ngạc
nhiên hơn khi nhận ra đó không ai khác hơn là anh
bạn đã cùng đi với Sadhu trước đó.
Hành động yêu thương xả
thân cứu người của Sadhu đã minh chứng cho
lời Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay: ”Ai giữ
lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều
mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy
được”. Anh bạn của Sadhu do đã cố giữ
mạng sống của mình nên cuối cùng đã bị mất
mạng, còn Sadhu do liều mất mạng vì tha nhân nên
đã được cứu. Đó là điều nghịch
lý mà Đức Giêsu đã trải qua và dạy các tín
hữu noi theo. Người đã sẵn lòng chịu
chết thập giá rồi sống lại vinh quang,
để dạy chúng ta hãy đi con đường yêu
thương: hy sinh mạng sống mình vì lòng mến Chúa yêu
người, và chắc ta sẽ nhận được
ơn cứu độ của Chúa.
5) CHIA SẺ GIÚP ĐỠ NGƯỜI
NGHÈO LÀ LÀM CHO CHÍNH CHÚA:
MÁC-TANH THÀNH TUA (Martin de Tour) là một
mẫu gương về đức bác ái cụ thể. Bấy
giờ Mác-tanh là người
đầu tiên được Hội Thánh tôn kính như
một vị thánh mà không do chịu tử vì đạo.
Ngài sinh ra tại Pháp vào lúc cuộc bách hại đạo
sắp chấm dứt. Trước đó chưa có người
nào được các tín hữu tôn kính như một vị
thánh giống như ngài.
Mác-tanh đã nêu cao chân lý : yêu
thương tha nhân là yêu chính Chúa Giê-su. Trong lúc Mác-tanh
đang học giáo lý dự tòng thì ngài đã ở trong quân
đội. Vào một đêm đông giá rét, khi Mác-tanh
đang ngồi trên lưng ngựa đi tuần tra thì
gặp một người ăn xin nghèo khổ đang
đi trên đường. Ông ta bị rét run vì quần áo
ông đang mặc chỉ là một mớ giẻ rách.
Mác-tanh liền thương cảm cởi chiếc áo choàng bằng
dạ đang mặc, rút gươm cắt thành hai mảnh
và đưa một mảnh cho người ăn xin nghèo
khổ kia. Sau đó, trong giấc ngủ, Mác-tanh đã
nằm mơ thấy Chúa Giê-su trên cây thập giá đang khoác
mảnh áo mà ông mới cắt cho người ăn xin. Mác-tanh nghe Người phán:
“Hỡi Mác-tanh, tuy đang học giáo lý, mà con đã cho Ta
chiếc áo này”.
3. SUY
NIỆM:
1) ĐÓN TIẾP THA NHÂN LÀ ĐÓN
TIẾP CHÍNH ĐỨC GIÊSU.
“Ai
đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón
tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai
Thầy.”
- NGƯỜI
KHÁC LÀ AI ? : GIĂNG PÔN SÁT (Jean Paul Sartres) một triết gia
hiện sinh vô thần đã nói : “Hỏa ngục chính là
người khác !”. Đây là một câu nói hận
đời, trái ngược với tinh thần yêu
thương của Đức Giê-su. Vì đối với
các tín hữu chúng ta thì người khác chính là hiện thân
của Đức Giê-su như Người đã nói : “Ta
bảo thật các ngươi : Mỗi lần các
ngươi làm như thế cho một trong những anh em
bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã
làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Nhưng người khác là ai
? Họ không phải là một người trừu
tượng, nhưng là những người sống bên
chúng ta. Họ là La-da-rô nghèo đói đang ở cửa nhà chúng
ta. Họ là những người yếu đuối, già
cả neo đơn, là những người vô gia cư, vô
nghề nghiệp. Có thể họ cũng là một
người trong gia đình ta, một người hàng xóm
hay ở cùng một đường phố với chúng ta.
Họ có thể là hỏa ngục hay là thiên đàng của
ta tùy theo cái nhìn của ta đối với họ.
- LÒNG HIẾU KHÁCH : Trong một xóm
đạo nọ, vào buổi sáng khi ánh mặt trời
vừa ló rạng, cánh cửa mọi nhà trong xóm đều
được mở ra đón ánh nắng ban mai. Rồi
từ đầu xóm, một gã hành khất đeo bị và
tay chống gậy xuất hiện. Qua các cánh cửa,
người ta phát hiện ra gã. Thế là từng nhà
dọc theo xóm, vội vã đóng và chốt cửa lại,
kéo rèm che cửa sổ. Bấy giờ gã hành khất
đến từng nhà gõ cửa, nhưng không ai ra mở
cửa. Cảm thấy nhục nhã buồn tủi, gã
lặng lẽ đi ra khỏi xóm. Khi gã vừa khuất
dạng, các rèm cửa lại được kéo lên, mọi
cửa nhà lại được mở toang đón nhận
nắng ấm tràn vào trong nhà. Mọi người trong xóm
đều vui vẻ ra mặt vì như vừa thoát khỏi
sự quấy rầy của một kẻ không mời mà
đến.
Hoạt
cảnh trên đây vẫn thuờng xảy ra đó đây
là do lòng ích kỷ của con người. Người ta
thường chỉ mở cửa nhà và cửa lòng
để đón mời một số người nào
đó trong gia đình ruột thịt, các người
bạn thân quen, đồng nghiệp, hay những kẻ mà
họ hy vọng sẽ đem lại cho mình lợi
lộc… và họ sẵn sàng khép cửa lại khi gặp
một người lạ, nhất là những kẻ dáng
vẻ nghèo nàn.
- CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ĐỐI VỚI
HỌ ? : Đức Giê-su dạy chúng ta hãy ân cần
tiếp đón tha nhân. Tùy theo thái độ của chúng ta mà
họ sẽ thành niềm vui mang lại hạnh phúc hay
trở nên nỗi bất hạnh của chúng ta : các chủ
quán ở Bê-lem xưa đã từ chối đôi vợ chồng
nhà quê nghèo khó là Giu-se và Ma-ri-a, nhưng họ lại không
ngờ mình đã từ chối đón nhận Đấng
Cứu Thế trong đêm Người giáng sinh (x. Lc 2,7); Hai
người thu thuế trong Tin Mừng là Mát-thêu và Da-kêu
đã mở rộng cửa nhà đón tiếp Đức
Giê-su và đã được ơn cứu độ (x. Mt
9,10 ; Lc 19,5-10); Gia đình Bê-ta-ni-a đón tiếp Đức
Giê-su và đã được Người dạy cho
biết điều cần thiết nhất (x. Lc 10,39-42).
Hai môn đệ làng Em-mau nhờ mời vị khách bộ
hành vào tạm trú trong nhà, mà các ông đã nhận ra
Đức Giê-su phục sinh (x. Lc 24,29-31). Ngày nay Đức
Giê-su vẫn đang hiện thân trong những người
đau khổ nghèo đói, những kẻ đứng ngoài
cửa nhà chúng ta và gõ. Ai mở cửa đón rước
Người, thì Người sẽ vào trong nhà linh hồn
của họ và ngồi vào bàn dùng bữa tối thân tình
với họ.
XÉT MÌNH : Tôi thường có thái độ thế
nào đối với những kẻ mình không ưa hay
những khách lạ không mời mà đến ? Tại sao
người ta đóng cửa nhà hay cửa lòng với
những người nghèo đói ăn xin ? Khi các
người làm tông đồ đến nhà, tôi có niềm
nở đón tiếp và cộng tác vào việc rao giảng
Tin Mừng của họ hay không ?
2) TÌNH
YÊU ĐỐI VỚI ĐỨC GIÊSU.
- GƯƠNG VÁC THÁNH GIÁ :
Từ
lễ Giáng Sinh năm 1969, mục sư ÁC-THƠ
BƠ-LÉT-SÍT (Arthur Blessit) đã khởi đầu một
cuộc hành trình đi bộ vòng quanh thế giới. Trên
vai vác một cây thập giá dài 3,6m, ngang 1,8m nặng 18 ki-lô.
Sau 26 năm vất vả, ông đã lập được
một kỷ lục thế giới về đi bộ,
khi vượt qua một quãng đường dài tới
hơn 50 ngàn cây số, ngang qua nhiều quốc gia. Sau này
ông đã thuật lại chuyến đi ấy như sau :
“Tôi đã đi qua nhiều sa mạc và rừng già, đã
từng bị dã thú như voi, rắn, cá sấu tấn
công. Tôi bị bắt giam 21 lần vì bị nghi là làm gián
điệp và có lần suýt bị dân da đỏ hành hình…”
Động lực thúc đẩy ông làm được
việc phi thường ấy là tình yêu mến Chúa Giê-su.
Ông muốn mang thánh giá đến mọi nơi trên thế
giới, như lệnh Người truyền : “Anh em hãy
đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép
rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”
(Mt 28,20). “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại
Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho
đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8b).
- PHẢI VÁC THẬP GIÁ NÀO ?
Đức
Giê-su mời mọi người hãy vác thập giá mình
hằng ngày mà theo chân Người (x. Mt 16,24).
Đường thập giá là con đường chính
Đức Giê-su đã đi chịu chết. Đây là con
đường khó nghèo khiêm hạ ở Bê-lem, lao
động vất vả ở Na-da-rét, là đường
rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ cứu nhân
độ thế từ Ga-li-lê đến Giê-ru-sa-lem, là
đường lo buồn trong vườn Cây Dầu,
bị xét xử bất công, chịu đánh đòn,
đội mão gai, vác thập giá lên đồi Can-vê; là
đường chịu đóng đinh và chết nhục
nhã như một tên đại gian ác. Nhưng con
đường đó lại là điều kiện
để vào vinh quang phục sinh, như ba lần
Người đã báo trước (x. Mt 16,21 ; 17,22-23 ;
20,18-19).
Các
tín hữu chúng ta cũng được Đức Giê-su
mời gọi đi con đường thập giá của
Người. Thập giá mà chúng ta vác không phải là cây
gỗ thập giá của Đức Giê-su, nhưng là
những gánh nặng việc bổn phận đối
với gia đình xã hội và Giáo hội, là đòi hỏi
phải từ bỏ của cải vật chất,
quyền hành, là những người mà chúng ta tuy không
ưa, nhưng vẫn phải sống chung một nhà.
Đức Giê-su đã làm gương cho chúng ta khi với tính
tự nhiên, Người bị lo buồn sợ hãi
trước Giờ Tử Nạn, nhưng Người
đã can đảm chấp nhận vâng theo ý Chúa Cha (Mt
26,39). Chỉ vì yêu mến Cha mà Người sẵn sàng từ
bỏ ý riêng để chấp nhận khổ hình thập
giá. Cũng vậy, chỉ khi nào ta thực sự yêu
mến Chúa Giê-su thì ta mới dám hy sinh quên mình, dấn thân
theo Chúa trên con đường thánh giá, và mới dám hiến
mạng sống mình vì mến Chúa và yêu tha nhân.
- PHẢI YÊU CHÚA THẾ NÀO ?
Đức
Giê-su đòi những ai muốn theo làm môn đệ
Người phải dành trọn tình yêu cho Người : “Ai
yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng đáng
với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì
không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37). Nếu
Đức Giê-su không phải là Đấng Cứu Thế
Con Thiên Chúa và nếu Người đã không chịu
chết vì yêu loài người trước, thì chắc
Người không dám đòi môn đệ phải hy sinh
như vậy. Từ ngày Đức Giê-su về trời
đến nay, có biết bao vị thừa sai tông
đồ đã dám sống đến cùng tình yêu mà
Đức Giê-su đòi hỏi ấy. Truyền giáo không
phải chỉ là rao giảng Lời Chúa, nhưng còn là thông
truyền đức tin và tình yêu Chúa cho người
khác ; Là giới thiệu Đức Giê-su cho tha nhân nhận
biết, tôn thờ, yêu mến cậy trông vào Người.
Muốn làm được điều này thì chính chúng ta
phải cảm nghiệm được tình yêu của Chúa
nơi bản thân và sẵn sàng dâng cả cuộc
đời để đáp lại tình yêu ấy.
Ước gì chúng ta yêu mến Đức Giê-su trên hết
mọi người, mọi vật, chấp nhận bỏ
đi cái tôi ích kỷ hẹp hòi, để tình yêu Chúa ngày
một lớn lên khi ta biết khiêm tốn phục vụ
tha nhân.
4. THẢO LUẬN: 1) Ta cần từ bỏ những gì và
phải vác thập giá nào để nên môn đệ của
Chúa ? 2) Theo kinh Cải Tội Bảy Mối, muốn
bỏ một tật xấu như tự kiêu, bủn
xỉn, mê đắm xác thịt, hay giận hờn, say
xỉn, ghen ghét, lười biếng… Ta phải tập
những nhân đức đối nghịch nào ?
5. LỜI
CẦU
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin dạy con biết yêu
mến Chúa cho xứng đáng : biết cho đi mà không
cần tính toán, biết chiến đấu mà không sợ
thương tích, biết làm việc mà không cần an
nghỉ, biết xả thân mà không cần một phần
thưởng nào khác, ngoài việc biết mình đã làm theo
thánh ý Chúa (Thánh I-NHA-XI-Ô).
-
LẠY CHÚA. Xin nhận lấy tất cả tâm tư tình
cảm và ước muốn của con, tất cả
những gì con có và những gì thuộc về con. Mọi
sự ấy đều do Chúa đã ban cho con, thì hôm nay con
lại xin dâng chúng cho Chúa. Tất cả là của Chúa. Xin
hãy sử dụng theo ý Chúa muốn. Con chỉ xin Chúa ban cho
con lòng yêu mến Chúa nồng nàn và sau này được Chúa
ban ơn cứu độ. Được như vậy là
con đã thỏa mãn lắm rồi.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM
LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH
- HHTM
|