Suy
Niệm LỄ ĐỨC MẸ THĂM VIẾNG 2017
Ngày
31 tháng 05
Lịch sử cứu
độ là lịch sử của những cuộc
viếng thăm. Đó là những cuộc viếng thăm
giữa Thiên Chúa và dân Người. Thật vậy, sau khi
hoàn tất công trình tạo dựng, Thiên Chúa không bỏ
rơi con người nhưng luôn viếng thăm
để ban ơn và có khi để khiển trách,
trừng phạt con người. Khi Adong Evà phạm tội,
Ngài viếng thăm để ra hình phạt đồng
thời để hứa ban Đấng Cứu Độ
(x. St 3,1-24). Rồi, Ngài viếng thăm dân Ngài qua các ngôn
sứ và các vị lãnh đạo dân Do Thái: Ngài viếng
thăm và thi ân giáng phúc cho ông Ab-ra-ham và hứa sẽ làm cho dòng
dõi ông nên đông đúc như sao trên bầu trời, như
cát ngoài bãi biển (x. St 22,17); Ngài viếng thăm Mô-sê qua
bụi gai bốc cháy để truyền lệnh cho ông
giải thoát dân Is-ra-el ra khỏi đất Ai-cập (x. Xh
3, 1-12); Ngài ở với ngôn sứ Giê-rê-mi-a để
cứu sống và giải thoát (x. Gr 15,20) và Ngài luôn
đồng hành với các ngôn sứ để truyền cho
họ nói Lời của Ngài cho dân chúng; Cuối cùng, chính
Ngài đã viếng thăm nhân loại qua chính Con Một
của Ngài là Đức Giêsu Kitô.
Qua đoạn Tin mừng hôm nay
cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã viếng thăm gia
đình ông Gia-ca-ri-a qua trung gian Đức Maria. Cuộc
viếng thăm này có hai chiều kích đặc biệt:
chiều kích thứ nhất là chiều kích chia sẻ.
Mẹ Maria mang Chúa đến để chia sẻ với
bà chị họ. Nhờ đó, Thánh Gioan Tẩy Giả
được khỏi Tội Nguyên Tổ ngay từ trong
lòng Bà Ê-li-sa-bét. Chính bà Ê-li-sa-bét đã vui mừng thốt lên
rằng: “Bởi đâu tôi
được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi
thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì
đứa con trong bụng đã nhảy lên vui
sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa
sẽ thực hiện những gì Người đã nói
với em” (Lc 1, 43-45). Chiều kích thứ hai là chiếu
kích phục vụ. Tin mừng cho biết, Mẹ Maria“ở lại với bà Ê-li-sa-bét
độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1,56). Khi
Mẹ đến thăm thì bà Ê-li-sa-bét thì bà đã cưu
mang Gioan được sáu tháng. Mẹ ở lại đó
ba tháng, tức là những tháng cuối cùng trước khi
bà Ê-li-sa-bét hạ sinh. Đây là những ngày tháng khó nhọc
vất vả nhất của người phụ nữ
mang thai. Mẹ biết được như vậy, nên
Mẹ đã tự nguyện ở lại đó để
chăm sóc, phục vụ, giúp đỡ bà chị họ. Điều
đó thể hiện tinh thần thăm viếng mang
chiều kích phục vụ của Mẹ.
Về phần Đức Giêsu,
sau thời gian sống ẩn dật tại làng quê Na-za-rét,
Ngài bắt đầu hành trình truyền giáo là bắt
đầu những cuộc viếng thăm: Ngài đi
khắp mọi nơi và gặp gỡ mọi người
để biến đổi và chữa lành họ; Ngài viếng
thăm ông Gia-kêu khi ông đang ngồi trên cây sung; Ngài
viếng thăm ông Lê-vi tại bàn thu thuế; Ngài viếng
thăm gia đình La-za-rô và cho ông đã chết Bốn ngày
được sống lại; Ngài viếng thăm và
chữa lành cho mẹ vợ của ông Phê-rô…Đi tới đâu là Ngài
thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ
bị ma qủi kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở
với Người (x. Cv 10, 36-38). Tin mừng còn cho
biết: Nhờ Ngài mà kẻ què đi được,
kẻ điếc được nghe, kẻ mù
được xem thấy, kẻ câm nói được,
kẻ chết sống lại, kẻ nghèo khó
được nghe Tin mừng. Chắc chắn Mẹ Maria
cũng đồng hành với Chúa Giêsu trên mọi nẻo
đường truyền giáo để thăm viếng, an
ủi tất cả mọi hạng người trong xã
hội. Đặc biệt, Mẹ có mặt tại
tiệc cưới Cana
để khẩn cầu Đức Giêsu làm phép lạ hóa
nước thành rượu ngon giúp cho gia chủ trong lúc
bế tắc. Mẹ hiện diện dưới chân Thánh
giá để lãnh nhận sứ mạng làm Mẹ loài người.
Sau khi về trời, Mẹ còn thăm viếng loài
người bằng những lần hiện ra nơi này
nơi khác như ở Lộc Đức, ở Fatima,
ở Lavang…Còn Đức Giêsu, sau khi Phục Sinh, Ngài còn
hiện ra nhiều lần nhiều nơi để
viếng thăm và cũng cố đức tin cho các Tông
đồ và các Kitô hữu đầu tiên. Có thể nói,
những cuộc viếng thăm của Thiên Chúa, của
Đức Giêsu và của Đức Maria là mẫu mực
cho các cuộc viếng thăm giữa con người
với nhau qua mọi thời đại. Đó là những
cuộc viếng thăm đem lại niềm vui, tình
thương và ơn cứu độ.
Các Tông đồ lãnh nhận
sứ mạng Đức Giêsu trao phó, tiếp tục ra
đi đến với muôn dân. Sách Công vụ Tông
đồ kể lại các sinh hoạt của Giáo hội
sơ khai cho chúng ta thấy điều đó. Các Ngài ra
đi khắp mọi nơi để thăm viếng, rao
giảng và làm chứng cho Đức Giêsu đã chết và
sống lại. Riêng Thánh Phaolô, sau khi trở lại, Ngài đã
thực hiện nhiều cuộc hành trình truyền giáo
đến với dân ngoại. Nhờ đó, nhiều
cộng đoàn Kitô hữu được thiết lập.
Từ đó tới nay, Giáo hội không ngừng ra đi
để thăm viếng muôn dân: Đó chính là sự “ra
đi” của các nhà truyền giáo, các giám mục, linh
mục, tu sỹ và giáo dân. Đặc biệt, từ
thời Đức Giáo Hoàng Phaolô VI cho tới nay, các
Đức Giáo Hoàng thường thực hiện những
cuộc thăm viếng mang tính quốc tế: Đức Thánh
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, đã có 129 cuộc viếng thăm
ngoài thành Rôma. Ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên
đến viếng thăm một ngôi đền Hồi
giáo ở Syria; viếng thăm vùng Thánh
Địa Giêrusalem... Các cuộc viếng thăm của
Ngài ảnh hưởng đến việc hòa giải các
dân tộc và tôn giáo. Đức Giáo hoàng Benedictô XVI và Đức
Giáo hoàng Phanxicô tiếp tục ra đi. Đức Giáo Hoàng
Phanxicô thường quan tâm đặc biệt đến
các vùng ngoại vi. Ngài đã đến với những
người tị nạn tại đảo Lampedusa,
trại tù Casal del Marmo…Ngài mời gọi mỗi
người chúng ta hãy “ra đi” để đem Tin
mừng đến với với những người
bần cùng nhất, những người sầu khổ,
những người còn trong bóng tối tội lỗi.
Chính vì thế, các cuộc viếng thăm của Ngài không
những đem lại sự hòa hợp các dân tộc mà còn
đem lại niềm vui và sự an ủi cho những
người thấp cổ bé miệng trong xã hội.
Viếng thăm cũng là
bổn phận của mỗi người chúng ta hôm nay:
Viếng thăm để thực hiện bổn phận
truyền giáo; Viếng thăm để thực hiện
bổn phận liên đới giữa chúng ta với các
mối tương quan như ông bà, cha mẹ, anh chị em,
bạn hữu. Chúng ta hãy bắt chước gương
viếng thăm của Thiên Chúa, của Đức Giêsu và
Đức Maria. Hãy có những cuộc viếng thăm tha
nhân một cách vô vị lợi. Hãy viếng thăm tha nhân khi
vui cũng như lúc buồn như lời Thánh Phaolô
nhắc nhở: “Hãy vui với
người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15). Hãy viếng thăm tha nhân trong
sự thành thật không giả hình, viếng thăm trong
tình yêu thương huynh đệ: “Đức ái không được giả hình: Hãy chê
ghét điều ác và trìu mến điều lành. Hãy
thương yêu nhau trong tình bác ái huynh đệ. Hãy nhân
nhượng tôn kính nhau” (Rm 12, 9-11); “Hãy giúp đỡ các thánh khi họ thiếu thốn,
và ân cần tiếp khách đỗ nhà” (Rm 12, 13). Đặc
biệt, chúng ta hãy siêng năng viếng thăm những
người nghèo đói, bệnh tật, cô thế cô thân,
những kè tù đày... để đem niềm vui và
hạnh phúc đến cho họ. Vì khi chúng ta thăm
viếng họ là chúng ta đang thăm viếng Chúa. Tin mừng
theo Thánh Mathêu, chương 25, Đức Giêsu đã
đồng hóa Ngài với những kẻ bé mọn: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc,
hãy đến thừa hưởng Vương Quốc
dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo
thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các
ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho
uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp
rước; Ta trần truồng, các ngươi đã
cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm
viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi
han.” Ngài nói thêm: “Ta bảo
thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm
như thế cho một trong những anh em bé nhỏ
nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính
Ta vậy.”
Ước mong rằng, ngày
lễ Mẹ Thăm Viếng hôm nay nhắc nhở mỗi
người chúng ta luôn biết ra khỏi chính mình
để đến với tha nhân, đem niềm vui có
Chúa và tinh thần phục vụ cho họ như
gương mẫu của Đức Maria. Amen.
Lm.
Anthony Trung Thành
|