HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 7 PHỤC SINH A
LỄ CHÚA THĂNG THIÊN
Cv 1,1-11; Ep 1,17-23; Mt 28,16-20
HÃY NÊN CHỨNG
NHÂN CỦA THẦY
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 28,16-20:
(16) Mười một Môn đệ
đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi
Đức Giê-su đã truyền cho các ông
đến. (17) Khi thấy Người, các ông
bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài
nghi. (18) Đức Giê-su đến gần, nói
với các ông: “Thầy đã
được trao toàn quyền trên trời
dưới đất”. (19) Vậy anh em hãy đi
và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,
làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (20) Dạy
bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy
đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy
ở cùng anh em mọi người cho
đến tận thế.
2. Ý CHÍNH:
Sau khi sống lại,
Chúa Giê-su đã hiện ra nhiều lần
để chứng minh cho các môn đệ thấy
Người đã thực sự từ cõi
chết sống lại. Nhưng lần này
trước khi về trời, Đức Giê-su
hiện ra lần cuối với Nhóm
Mười Một trên một ngọn núi tại
miền Ga-li-lê. Người không chứng minh
Người đã sống lại như các
lần trước, nhưng trao sứ mệnh rao
giảng Tin Mừng phổ quát cho Hội Thánh
qua Nhóm Mười Một môn đệ như sau:
“Hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân,
làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Người cũng truyền cho các ông tiếp
tục dạy cho các tín hữu phải tuân giữ
các huấn luyện của Người và
hứa sẽ ở cùng các ông mọi
ngày cho đến tận thế.
3. CHÚ THÍCH:
- C 16-17:
+Mười một môn đệ: Nhóm
Mười Hai bây giờ mất Giu-đa phản
bội, nên chỉ còn mười một
người (x. Mt 10,1-4; 27,5). + Đi tới
miền Ga-li-lê: Vâng lời dạy của thiên
thần nhắn cho các môn đệ qua hai phụ
nữ và sau đó chính Chúa Giê-su
cũng nhắc lại khi hiện ra với hai
bà này vào sáng sớm Ngày
Thứ Nhất trong tuần (x. Mt 28,7.10). Ga-li-lê là
trung tâm truyền giáo của Đức Giê-su trong
thời gian Người đi rao giảng Tin
Mừng Nước Trời. + Đến ngọn
núi: Tin Mừng không xác định là
núi nào. Còn sách Công Vụ Tông Đồ cho
biết là núi Ô-liu (x. Cv 1,12). Núi
tượng trưng là nơi Thiên Chúa mặc
khải cho các Ngôn sứ thời Cựu
Ước (x. Xh 3,1-5; 19,20; 1 V 19,8-14). Trong Tin
Mừng Mát-thêu, nhiều lần Đức
Giê-su cũng mặc khải những điều
quan trọng trên núi. Chẳng hạn: Công bố
Tám Mối Phúc Thật trên một quả núi
(x. Mt 5,1), biến hình trước mặt ba môn
đệ trên núi cao (x. Mt 17,1); ra lệnh cho các môn
đệ đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân
tộc trên một ngọn núi (x. Mt 28,16). (17) + Khi
thấy Người, các ông bái lạy:
Các môn đệ thấy Chúa Giê-su Phục Sinh
và biểu lộ niềm tin bằng việc
sấp mình bái lạy Người. Hành
động này tương tự như các
đạo sĩ đã sấp mình bái lạy
Hài Nhi Cứu Thế (x. Mt 2,2.8.11); Người
phong cùi bái lạy xin Đức Giê-su
chữa lành (x. Mt 14,33); Người đàn
bà xứ Ca-na-an bái lạy xin Đức
Giê-su chữa cho con gái bà khỏi bị quỷ
ám (x. Mt 15,25). + Có mấy ông lại
hoài nghi: Nói đến có môn đệ
còn hoài nghi sau khi các ông đã bái
lạy Chúa xem ra bất nhất và khó hiểu.
Thực ra, lúc này khi sắp từ
giã Chúa Giê-su sắp về trời thì
mọi môn đệ đều đã tin, và không ai
còn hoài nghi gì nữa. Nhưng các
trình thuật hiện ra khác đều nói
đến sự nghi ngờ, và đều
đã được Người đánh tan sự
nghi ngờ ấy. Ở đây, Chúa Giê-su
đánh tan sự hoài nghi khi cho biết
Người đã được trao toàn
quyền trên trời dưới đất (x. Mt 28,18).
Do câu này mà nhiều người nghĩ
rằng sự hoài nghi ở đây là
nhắm nói tới sự hoài nghi
của cộng đoàn nói chung, vì từ
đây các tín hữu sẽ không còn thấy
Chúa Phục Sinh hiện ra nữa. Sự
hoài nghi này từ nay sẽ được
Lời Chúa trong Thánh Kinh đánh tan. Do
đó, các tín hữu phải dựa
vào Lời Chúa và quyền năng của
Người để củng cố đức
tin. Nhờ vậy đức tin của họ
mới được chúc phúc: “Phúc thay
những người không thấy mà tin !” (Ga 20,29).
- C 18-19: +
Đức Giê-su đến gần: Đến
gần là hành động ưu ái
đặc biệt, lấp đầy khoảng
cách giữa thiên quốc và trần gian mà
chỉ Đức Giê-su Phục Sinh mới làm
được. + Thầy đã
được trao toàn quyền trên trời
dưới đất: Lúc khởi
đầu việc rao giảng Tin Mừng,
Đức Giê-su đã từ chối nhận
quyền Sa-tan hứa ban cho Người mọi
nước trên thế gian (x. Mt 4,8-10), thì
giờ đây, sau khi đã vâng phục thánh
ý Chúa Cha để đi con đường
"Qua đau khổ vào vinh quang", Người
đã được Chúa Cha ban mọi
quyền năng trên trời dưới đất,
để ứng nghiệm lời tuyên sấm trong
sách Đa-ni-en về Con Người: “Người
được ban tặng quyền bính, vinh
dự, vương triều. Tất cả các dân
các nước và các tiếng nói đều
phải phụng sự Người” (Đn 7,14),
và quyền bính của Người còn bao
trùm cả trời đất (x. Cv 13,33). + Anh
em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành
môn đệ: Các môn đệ đại
diện Hội Thánh nhận bài sai của Chúa
Giê-su để đi chinh phục thế giới.
Từ nay Hội Thánh phải nhân danh
Người mà làm cho muôn dân trở
thành môn đệ của Người,
trước tiên là những người Do
thái (x. Mt 10,5-6; 15,24), rồi đến mọi dân trên
thế giới (x. Mt 8,11; 21,41). + Làm phép
rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần: Làm cho người
ta trở thành môn đệ Chúa Ki-tô gồm
cả việc rao giảng Tin Mừng. Để chu
toàn việc này, các môn đệ phải cho
họ lãnh nhận phép rửa nhân danh Chúa
Ba Ngôi, nghĩa là đặt người dự
tòng trong tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa
là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần.
- C 20: + Dạy bảo
họ tuân giữ mọi điều Thầy đã
truyền: Việc đào tạo người
ta nên môn đệ Chúa phải được
tiếp tục sau khi đã chịu phép rửa,
bằng lời giảng dạy, cho tới khi
Hội thánh đạt tới sự viên
mãn của Đức Ki-tô (x. Ep 1,23). Chính
vì thế mà các Tông đồ phải
hướng dẫn muôn dân tuân giữ các
giới răn của Chúa. Đây là Dân của
Giao Ước Mới phải sống theo Luật
Mới do Chúa Giê-su công bố và các Tông
đồ có nhiệm vụ phải truyền đạt. +
Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho
đến tận thế: Chúa Ki-tô Phục Sinh
hứa sẽ hiện diện mãi trong Hội
Thánh để hỗ trợ, giúp Hội
Thánh chu toàn sứ mệnh rao giảng Tin
Mừng cho đến tận thế. Vì
Người chính là Em-ma-nu-en, nghĩa là
“Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Mt 1,23).
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao chỉ còn Mười
Một môn đệ có mặt khi Chúa lên
trời ? 2) Tại sao các môn đệ lại
họp mặt tại miền Ga-li-lê ? 3) Chúa lên
trời trên quả núi nào ? 4) Tại sao các
môn đệ bái lạy Đức Giê-su khi thấy
Người xuất hiện ? 5) Tại sao Tin
Mừng nhắc đến thái độ hoài
nghi của các môn đệ vào lúc này ? 6) Tại sao
trước khi lên trời Chúa Giê-su tuyên bố mình
được trao toàn quyền trên trời
dưới đất ? 7) Mệnh lệnh thâu nạp
môn đồ khắp muôn dân và công thức
rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi trong câu này
chính xác đến mức độ nào,
vì trong sách Công Vụ, Hội Thánh sơ khai
mới chỉ nói tới công thức
rửa tội “nhân danh Chúa Giê-su” mà thôi (x. Cv
2,38; 10,48) ?
ĐÁP CÂU 7:
Thực ra, từ ban
đầu Hội Thánh sơ khai đã ban phép rửa
« nhân danh Đức Giê-su » như sách Công Vụ
thuật lại lời của ông Phê-rô : « Anh em hãy
sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân
danh Đức Giê-su Ki-tô, để được ơn
tha tội » (Cv 2,38; 10,48).
Còn lời Chúa Giê-su truyền
cho các môn đệ « làm phép rửa nhân danh Chúa Ba
Ngôi » trước khi lên trời trong Tin Mừng Mát-thêu
hôm nay (Mt 28,19) cũng chính là lời của Chúa Giê-su.
Tuy nhiên mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi chỉ được
sáng tỏ dần dần nhờ ơn Chúa Thánh
Thần ban, qua kinh nghiệm sống và rao giảng Tin
Mừng của Hội Thánh. Về sau Hội Thánh
đã đưa giáo lý về mầu nhiệm Một
Chúa Ba Ngôi vào công thức phụng vụ phép rửa: « Làm
phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần » thay thế công thức « nhân
danh Chúa Giê-su » đã có từ thời sơ khai. Khi Tin
Mừng Mát-thêu được hoàn thiện (vào
khoảng năm 70-80), công thức rửa tội nhân
danh Chúa Ba Ngôi được đưa vào lệnh
truyền của Chúa Phục Sinh cho các môn đệ trước
khi Người lên trời như bài Tin Mừng Mát-thêu thuật
lại.
II. SỐNG LỜI
CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Thầy đã
được trao toàn quyền trên trời
dưới đất. Vậy anh em hãy đi
và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,
làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo
họ tuân giữ mọi điều Thầy đã
truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng
anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt
28,18b-20).
2. CÂU CHUYỆN:
1) TIN
VÀ LÀM CHỨNG CHO CHÚA
JUNE là một
bé gái 5 tuổi có khuôn mặt đẹp
như thiên thần và rất lanh lợi. Cha mẹ
em đều là nhà giáo có lòng đạo
đức. Mẹ thường đem em đi theo
mỗi khi bà có việc ra ngoài nhà. Một
hôm, hai mẹ con dắt nhau vào bưu điện
thành phố. Khi bà mẹ đang lo gửi
thư bảo đảm cho một người thân,
thì bé June chạy chơi loanh quanh gần
đó để xem người ta làm việc.
Bấy giờ một ông lão ngồi gần
đó trông thấy em bé kháu khỉnh dễ
thương, liền bắt chuyện làm quen. Ông
nói: “Này bé kia, mái tóc của cháu
đẹp lắm ! Sao cháu lại có mái
tóc đẹp đến thế nhỉ ?” Cô bé
liền vui vẻ trả lời: “Thưa ông, mẹ
cháu dạy: Chúa đã ban mọi sự
tốt đẹp cho cháu và cháu phải
cám ơn Chúa nhiều lắm đó !”
Nói xong em nhìn thẳng vào mặt ông
lão, nhoẻn một nụ cười thật
dễ thương và hỏi: “Thế ông đã
được Chúa ban cho điều gì tốt
đẹp chưa ? Ông có đươc Chúa ban
ơn cứu độ không ?”.
Ông lão kinh ngạc
và xúc động trước câu hỏi
đơn sơ của cô bé. Ông ngẩn
người suy nghĩ giây lát rồi đáp:
“Chưa đâu, cháu ạ”. Em bé liền nói:
“Thế thì ông phải đến xin Chúa ngay đi.
Rồi Chúa sẽ ban cho ông được
trở thành con của Chúa, và ông sẽ
được Chúa làm cho trở nên một
người mới xinh đẹp lắm
đó !” Nói xong, bé vội chạy về
phía mẹ đang vẫy gọi ở lối bên
kia.
Ít tuần sau, ông
lão tìm đến một nhà thờ xin
học giáo lý dự tòng. Về sau ông cho
biết: chính câu nói đơn sơ của bé
gái hôm ấy đã đánh động tâm
hồn vốn chai lì của ông, và luôn ám
ảnh khiến ông không thể nào quên được.
Cuối cùng ông đã quyết định phải
xin theo đạo để được trở
nên con Chúa và được đổi
mới tốt đẹp như em bé đã
nói.
Câu nói của
một bé gái tuy đơn sơ nhưng đã
có sức mạnh khiến một người
già cứng lòng phải suy nghĩ và quay
về với Chúa. Còn chúng ta thì sao ?
Chúng ta có dám biểu lộ đức tin
trước mặt người khác không ?
Có dám nói về Chúa cho những
người chưa nhận biết Chúa để
họ tin Chúa và đi theo làm môn đệ
Người hay không ?
2) HẠNH PHÚC THIÊN ĐÀNG LÀ KHI ĐƯỢC
SỐNG TRONG TÌNH THƯƠNG:
Có rất nhiều người lầm
tưởng thiên đàng là một khoảng không gian nào
đó trên cao kia. Sự lầm tưởng này đã làm phát
sinh nhiều hậu quả không hay: người có
đạo thì bị lung lay bối rối khi có một vài
khoa học gia nói rằng: Chẳng thấy Chúa đâu trên
kia cả; người không có đạo thì nghĩ: Có
lẽ nước trời là một thế giới nằm
đâu đó trong không gian, với những sinh hoạt na ná
giống như trần gian này. Thế nên đã có câu chuyện
khôi hài do một cha thừa sai kể lại:
Sau một tuần giảng đại
phúc thật sốt sắng tại một vùng đất
nọ, các cha khuyên nhủ được một ông cụ
ngoại đạo gia nhập đoàn chiên Chúa. Thấy
cụ bà chưa có dấu hiệu nào khả quan, nên các cha
tích cực khuyên bảo: “Ông đã theo đạo rồi, bà
cũng nên theo đi thôi, để sau khi chết còn lên thiên
đàng gặp lại nhau nữa chứ.” Nghe thế
cụ bà hốt hoảng trả lời, “Không
được đâu, suốt đời ổng đã hành
hạ tui đủ thứ. Mai mốt trên thiên đàng còn
phải gặp lại mặt ổng nữa thì tui chết
mất.”
Thiên đàng sẽ chẳng có chút gì
hấp dẫn nếu như nơi đó không có hạnh
phúc. Nhưng hạnh phúc chính là hoa trái của tình yêu phát
xuất từ trái tim, từ trong lòng mỗi người,
trong gia đình chúng ta đang cư ngụ hay ở nơi
chúng ta làm việc, chứ không phải là một nơi
chốn nào đó trên trời cao, như lời Chúa Giê-su: “Triều
Đại Thiên Chúa không đến như một
điều có thể quan sát được. Và người
ta sẽ không nói: “Ở đây này! Hay ở kia kìa!” . Vì này,
Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc
17,20-21)..
3)
HẠNH PHÚC THIÊN ĐÀNG CHÍNH LÀ MÁI ẤM GIA ĐÌNH:
Có nhà hoạ sĩ kia mơ ước
mình sẽ vẽ được một bức tranh
đẹp nhất thế gian. Nhưng anh ta không biết
phải vẽ cái gì để bức tranh chứa
đựng hình ảnh, màu sắc và nội dung đẹp
nhất thế gian. Chàng đã đến hỏi một vị
linh mục xem trên thế gian này có điều gì đẹp
và ý nghĩa nhất. Vị linh mục trả lời ngay:
“Niềm tin. Niềm tin là số một, niềm tin sẽ
nâng cao giá trị con người. Niềm tin sẽ chữa
lành và biến đổi mọi sự nên tuyệt vời
!”
Chàng hoạ sĩ cũng đặt câu
hỏi tương tự với một cô dâu sắp lên xe
hoa về nhà chồng, và được cô trả lời:
“Trên thế gian này không có gì đẹp bằng tình yêu. Tình
yêu là hơi thở, là sức sống, là hạnh phúc, là
tất cả. Tình yêu biến cay đắng thành ngọt
ngào, đưa tiếng cười vào nơi than khóc,
đổi nghèo hèn tầm thường thành phú quí cao sang.
Tình yêu thật tuyệt vời !”
Cuối cùng người hoạ sĩ
gặp một anh thương binh vừa trở về
từ chiến trường. Nghe hỏi về điều
nào đẹp nhất thì anh đã trả lời: “Bình an là
điều đẹp nhất trần gian. Ở đâu có
chiến tranh, ở đó có đổ nát, bất hạnh,
khổ đau. Ở đâu có hoà bình, ở đó có cái
đẹp tuyệt vời nhất !”
Ba câu nói của ba con người--
vị linh mục, cô gái sắp lấy chồng và anh
thương binh trẻ-- đã làm cho chàng hoạ sĩ phân
vân: không biết phải vẽ gì để bức tranh
của anh diễn tả cùng một lúc niềm tin, tình yêu,
và sự bình an.
Đang suy nghĩ miên man, anh đã về
đến nhà lúc nào không hay. Mấy đứa con anh ùa ra
đón bố. Anh nhận thấy niềm tin trong ánh mắt
của các con. Anh cũng cảm nghiệm được
tình yêu trong thái độ ôm hôn chân thành của người vợ
hiền. Niềm tin của con cái và tình yêu của
người vợ làm cho tâm hồn anh ta trở nên ấm
áp và bình an lạ lùng. Thế rồi một ý tưởng
chợt loé lên trong đầu. Anh vội đến phòng
vẽ bắt tay vào việc vẽ tranh, và sau khi đã hoàn
thành tác phẩm đẹp nhất thế gian, anh đã
đặt tên cho bức tranh ấy là: “Mái Ấm Gia
Đình.”
Mái ấm gia đình chính là hình ảnh
xinh đẹp và sống động nhất mà
người ta có thể diễn tả về hạnh phúc Thiên
đàng đời sau. Mái ấm gia đình cũng chính là lời
chứng hùng hồn nhất mà chúng ta có thể trình bày về
ơn cứu độ của Chúa cho những người
chưa nhận biết Chúa.
4) LÀM CHỨNG CHO CHÚA LÀ SỐNG YÊU THƯƠNG PHỤC VỤ NHƯ
MẸ TÊ-RÊ-SA:
Dù chỉ là một
nữ tu sáng lập đơn côi ban đầu, đến
nay mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã làm nên phép lạ cho dòng
Thừa Sai Bác Ái của mẹ lên đến con số 4000
nữ tu, 450 sư huynh và hàng ngàn người ngoại giáo
ngày đêm xuôi ngược tiếp tục công việc nhân
ái của mẹ, với 600 cơ sở trong 126 quốc gia
trên thế giới. Từ ngày thành lập từ năm 1950
đến nay mỗi năm nhà dòng của mẹ đã giúp
nuôi 50.000 gia đình nghèo, dạy dỗ cho 20.000 trẻ em và
săn sóc cho 90.000 người mắc bệnh phong cùi trong
các bệnh viện tư ở 10 quốc gia. Các trẻ em
mồ côi mà mẹ đã nuôi dạy từ hơn nửa
thế kỷ đến nay đã lên đến con số nhiều
không kể hết.
Ngày mẹ qua
đời, tổng thống pháp Jacques Chirac đã gởi
một bức điện với lời lẽ phân ưu như
sau: “Từ tối hôm nay thế giới đã có ít Tình Yêu
hơn, ít lòng Trắc Ẩn hơn và ít Ánh Sáng hơn”. Mẹ Têrêsa quả là một chứng
nhân anh dũng. Mẹ không chỉ tin đạo mà còn
sống đạo để làm chứng nhân của tình yêu
Thiên Chúa cho con người thời đại hôm nay.
3. SUY
NIỆM:
1)
ƯỚC VỌNG LÊN TRỜI CỦA LÒAI NGƯỜI:
Con người từ xưa
đến nay đều khát khao được bay lên
trời cao. Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần
đầu tiên, hai anh em Mongolfiers, đã leo lên quả khí
cầu bay lên trời được 500 mét trước hàng
ngàn người chứng kiến. Ngày 12 tháng 04 năm 1961,
Gagarine, phi hành gia đầu tiên của Liên-xô đã bay ra
khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi
thuyền Vostok I. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai phi
hành gia người Mỹ là Armstrong và Aldrin đã bay lên mặt
trăng. Hôm nay, Hội Thánh mừng lễ Chúa Giê-su lên
trời. Người trở về nhà Cha, sau khi đã hoàn
tất sứ vụ được Cha trao phó. Sau thời
gian 33 năm sống trên trần gian, giờ đây Người
từ cõi chết sống lại, rồi “được
đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc
16,19).
2) MẦU
NHIỆM CHÚA THĂNG THIÊN:
Tin Mừng Mát-thêu hôm nay kể lại việc
Chúa Phục Sinh đã giáo huấn các tông đồ lần
cuối cùng, rồi sai các ông đi rao giảng Tin Mừng
cho muôn dân và làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Ba Ngôi là Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần (x. Mt 28,20). Sách Công Vụ cũng
ghi lại lời Chúa Phục Sinh truyền cho các môn
đệ: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại
Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho
đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8b). Rồi Ngài
lên Trời trước mắt các ông và có đám mây
rước Người lên, khuất mắt các ông.
Điều
mà Tin Mừng hôm nay muốn nhấn mạnh, không phải là
việc Chúa Giê-su được đem lên trời như
thế nào mà là sứ vụ mà Người trao cho các môn
đệ là thay Người đi loan báo Tin Mừng cho muôn
dân, trở thành chứng nhân của Người đến
mọi nơi mình đang hiện diện và cho mọi dân
tộc. Các Tông đồ đã đón nhận lời
mời của Chúa Giêsu với niềm tin tưởng hân
hoan. Tin vào Chúa Giê-su, Đấng đã qua cuộc khổ
nạn vào trong vinh quang phục sinh, rồi lên trời và đến
ngày tận thế sẽ tái lâm để phán xét chung nhân
loại. Tin Chúa Thánh Thần đã được Chúa Giê-su hứa
ban để giúp các tông đồ thi hành sứ vụ làm
chứng cho Chúa đến tân cùng trái đất. Khi thi hành
sứ vụ này, các môn đệ và các tín hữu hôm nay
cũng phải đón nhận những chống
đối, đau khổ, tù đày và có thể còn bị
giết hại như lời Chúa Giê-su tiên báo: “Nếu
thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét
Thầy trước. Giả như anh em thuộc về
thế gian, thì thế gian yêu thích cái gì thuộc về nó.
Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy
đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên
thế gian ghét anh em” (Ga 15,18-19).
3) CHÍNH ANH EM HÃY LÀ CHỨNG NHÂN CHO THẦY:
Hơn bao giờ
hết cuộc sống đã có không ít những khó khăn
đang đặt ra cho mỗi người chúng ta. Những khó khăn đó đã làm cho
chúng ta quên đi đời sống chứng nhân của
mình. Nhiều tín hữu hiện nay vẫn có thái độ ích
kỷ khi chỉ quan tâm lo kiếm tiền bạc,
địa vị và quyền hành cho bản thân, mà chưa ý
thức sứ vụ loan báo Tin Mừng, làm chứng cho Chúa.
Lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay mời
gọi chúng ta hãy làm chứng nhân cho Người. Vậy thế
nào là làm chứng nhân cho Chúa ?
- Thực ra, Chúa không đòi chúng ta
phải làm điều quá sức như: Phải lập những
dòng tu mới hay xây dựng những cơ sở từ
thiện như Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã làm. Điều
Người chờ đợi nơi chúng ta là làm chứng
cho Người bằng lối sống yêu thương, quên
mình, phục vụ.
- Làm chứng là mở tai để
lắng nghe, mở trí khôn để suy niệm và mở tay
ra để thực hành Lời Chúa, vì Lời Chúa chính là ánh
sáng và là sức mạnh giúp chúng ta góp phần làm vinh danh cho Chúa
và cứu rỗi tha nhân.
- Làm chứng là mở miệng
để nói về Chúa Giêsu cho những người thành
tâm muốn nghe.
Con người thời nay
thường thích nghe các chứng nhân hơn là thầy
dạy. Mà nếu họ có nghe thầy dạy là do thầy
dạy đó cũng là chứng nhân. Anh em lương dân
cũng chỉ sẵn sàng tin điều chúng ta rao giảng
khi họ nhìn thấy lối sống yêu thương quên
mình phục vụ của chúng ta.
4) CỤ THỂ CHÚNG TA PHẢI LÀM
CHỨNG CHO CHÚA NHƯ THẾ NÀO?
Trong tác phẩm
“Hương rượu mới”, tác giả
thuật lại về giờ phút cuối cùng
của cha mình và gương sáng làm việc tông
đồ của một nữ tu như sau: “Bấy
giờ cha tôi đang hấp hối trên
giường bệnh. Trong khi tôi chỉ biết ngồi
nhìn cha với tâm trạng chán nản thất
vọng, thì một nữ tu Công giáo với
dáng người nhỏ nhắn đã
bước vào phòng. Chị đi vòng qua
bên kia giường cha tôi đang nằm, cầm
lấy tay ông đưa lên vỗ nhè nhẹ. Sau
đó chị hỏi: “Bác có nghe cháu
nói không ?” Ông cụ gật đầu. Đoạn
chị nói với ông: “Trước đây
bác đã tin Chúa Giê-su là Đấng
Cứu Thế chưa ?” Ông cụ lắc
đầu. Chị nữ tu liền nói: “Bây
giờ bác có muốn tin Chúa không ?” Ông
cụ đáp: “Dạ có”. Thế là chị yêu
cầu ông lặp lại theo mình: “Lạy Chúa
Giê-su, con nhận Chúa chính là Đấng
Cứu Thế của con. Xin Chúa ban cho con
được làm môn đệ của Chúa
và được ơn tái sinh làm con
Chúa Cha trên trời”. Ông cụ lặp lại
theo từng câu và sau đó nhắm
mắt qua đời.
Như vậy “làm
chứng” về Chúa Giê-su và dạy cho kẻ
khác biết về Người, đơn giản chỉ là chia sẻ
cho họ niềm tin và tình yêu mà mình đang
có. Chia sẻ kho tàng đức tin mà ta sống
và hy vọng. Chúa Giê-su mời gọi chúng ta hãy
nhận từ tay của Người sứ vụ
mà chính Người đã nhận được
từ nơi Chúa Cha, để chúng ta thay Người
giúp người đời nhận biết tin thờ Cha và
đi theo con đường của Chúa Giê-su là :
« Sống tình mến Chúa yêu người ».
Ước gì Lễ Chúa
Giê-su Lên Trời hôm nay nhắc chúng ta về Nước
Trời ngay ở trần gian hôm nay là gia đình của mình,
để chúng ta quyết tâm làm chứng cho Chúa, bằng
việc xây dựng cho gia đình mình trở thành một mái
ấm yêu thương, tin yêu và an bình hạnh phúc.
4. THẢO LUẬN:
1) Ngày nay bạn có thể làm
chứng cho Chúa bằng những
phương cách nào hữu hiệu nhất ? 2)
Bạn quyết tâm sẽ làm gì cụ thể
để làm chứng về Chúa cho một
người thân đang lạc xa Chúa, hay một
người bạn chưa nhận biết Chúa ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU.
Hôm nay cùng với Hội Thánh, chúng con
mừng lễ Chúa về trời. Trời mới
là quê hương mà chúng con phải hướng
về. Thế nhưng trong Sách Công Vụ hôm nay,
Chúa muốn dạy các môn đệ rằng:
điều quan trọng nhất các ông phải làm
là tiếp tục công trình cứu độ
của Chúa, bằng việc loan Tin Mừng
“bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, trong
khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho
đến tận cùng trái đất”. Làm
chứng bằng lời rao giảng nhờ
ơn Thánh Thần. Làm chứng bằng
những hành động bác ái yêu
thương, bằng sự khiêm nhường
phục vụ, bằng việc quảng đại cho
đi, bằng việc hy sinh bản thân để lo
phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân... Xin Chúa giúp
chúng con ý thức chu tòan sứ vụ làm
chứng cho Chúa.
- LẠY CHÚA.
Chúng con thường nghĩ: “Tôi phải lo cái
ăn cái mặc cho bản thân và gia
đình mình trước đã ! Tôi không
có khả năng nói về Chúa cho
người khác ! Tôi không có thì giờ
rảnh !…” Đang khi Chúa dạy chúng con:
“Trước hết hãy tìm kiếm
Nước Thiên Chúa và đức công
chính của Người, còn tất cả
những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt
6,33). Chúa muốn chúng con hãy bắt đầu
phụng sự Chúa với hết khả năng,
rồi Chúa sẽ bù đắp phần
thiếu sót. Vậy xin Chúa giúp chúng con
biết ưu tiên lo cho cho công việc của Chúa
và phó thác cuộc sống trong tay Chúa quan
phòng. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ
được Chúa nói với chúng con
trong giờ phán xét: “Hỡi người đầy
tớ tài giỏi và trung thành !
Được giao ít mà anh đã trung
thành, thì Ta sẽ giao nhiều cho anh. Hãy
vào hưởng niềm vui của chủ anh !” (Mt
25,21).
X) HIỆP
CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI
CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM
|