Suy
Niệm Chúa Nhật VI Phục Sinh – Năm A
Vâng lời Đức Chúa Cha,
Đức Giêsu đã xuống thế làm người
để cứu độ nhân loại. Sau khi sống
cuộc đời ẩn dật ở Nazareth, Ngài bắt đầu cuộc
sống công khai. Sứ mạng chính của Ngài là rao
giảng Tin mừng. Nhưng Ngài biết thời giờ
của Ngài ở thế gian không còn được bao lâu,
nên cùng lúc rao giảng Tin Mừng, Ngài đã tuyển
chọn một số người mà Kinh thánh gọi là Tông
đồ để trao cho họ sứ mạng của
Ngài. Ngài quan tâm số người này một cách đặc
biệt. Trước khi chọn họ, Ngài đã thức
suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa (x. Lc 6,12-16). Sau
những giờ rao giảng cho dân chúng, Ngài thường
gặp riêng họ để dặn dò, hoặc giải
thích thêm những điều mà họ chưa hiểu. Ngài còn
dành thời gian để dạy cho họ về những
bài học cao quý của người lãnh đạo,
nhất là bài học về tinh thần phục vụ. Ngài
nói: “Các
con biết rằng những người được coi
là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như
ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy
quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái
lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm
đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người
cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho
mọi người. Vì chính Con Người cũng không
đến để được phục vụ,
nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình
làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mc 10,42-45).
Đặc
biệt, trong bữa tiệc ly, Ngài không những “dạy”
mà còn “làm gương” cho các ông bằng cử chỉ
rửa chân. Sau khi thực hành điều đó, Ngài nói: “Anh
em gọi Thầy là ‘Thầy’, là ‘Chúa’, điều đó
phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là
Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn
rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho
nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em,
để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga 13,13-15).
Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta
biết, tuy Ngài sẽ về lại với Chúa Cha, nhưng
“Ngài
không để cho các ông mồ côi” (Ga 14,18). Thứ
nhất, Ngài sẽ
ban Đấng Phù Trợ đến. Đấng Phù Trợ
đây là Thần Chân Lý, tức là Chúa Thánh Thần, là Thiên
Chúa Ngôi Ba sẽ ở với các Tông đồ và Giáo
hội. Thứ hai, tuy Ngài sẽ về với Chúa Cha, không
còn hiện diện thực sự như Ngài đã từng
hiện diện với các ông trong suốt ba năm qua,
nhưng Ngài sẽ ở với các ông, với Giáo hội
mỗi ngày cho đến tận thế bằng Lời
của Ngài, bằng các Bí tích và bằng sự hiện
diện một cách thiêng liêng. Điều này đã
được chứng minh bằng những lần
hiện ra sau khi Ngài phục sinh.
Nhưng Đức Giêsu đòi hỏi
các Tông đồ là phải yêu mến Ngài. Cũng như
trước khi trao sứ vụ Tông đồ
trưởng cho Phêrô, Ngài đã muốn ông xác nhận
về lòng yêu mến (x. Ga 21,15-19). Vì thế, lòng yêu mến
hết sức quan trọng. Thánh Augustinô cũng đã
từng nói: “cứ yêu rồi muốn làm gì thì làm”. Nhưng làm thế nào để
chứng minh được lòng yêu mến? Đức Giêsu
cho biết, lòng yêu mến được thể hiện
qua việc thực hiện những lệnh truyền
của Ngài, Ngài nói: "Nếu các con yêu mến Thầy,
thì hãy giữ giới răn Thầy”(Ga 14,15); “Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các
luật đó, thì người ấy là kẻ yêu mến
Thầy”(Ga 14,21).
Như vậy là đã rõ: Yêu
mến Đức Giêsu là tuân giữ các luật của Ngài.
Hay nói cách khác, kẻ giữ luật Đức Giêsu mới
là kẻ yêu mến Ngài. Luật của Ngài là những giáo
huấn được ghi lại trong Thánh Kinh và
được lưu truyền qua Thánh truyền. Luật
của Ngài được tóm lại trong mười
điều răn là mến Chúa yêu người.
Các Tông đồ đã yêu
mến Đức Giêsu một cách tuyệt đối và vô
vị lợi. Bởi vì, các ông
đã thực hiện trọn vẹn giới răn
của Đức Giêsu. Vì lòng yêu mến Chúa vô vị
lợi nên các Ngài đã phục vụ tha nhân hết mình và
cuối cùng các Ngài đã lấy cái chết để làm
chứng cho lòng yêu mến của các Ngài vào Đức Giêsu.
Các bài đọc hôm nay chứng minh cho chúng ta phần nào.
Bài đọc 1, cho chúng ta thấy
cách thức các Tông đồ và các thừa tác viên trong
hội thánh sơ khai đã thực hiện giới răn
của Đức Giêsu, đó là rao giảng, làm phép lạ,
trừ quỷ, chữa lành bệnh tật. Sách Công Vụ
tường thuật: “Trong
những ngày ấy, Philipphê đi xuống một thành
thuộc sứ Samaria,
rao giảng Ðức Kitô cho họ. Dân chúng chú ý đến
những lời Philipphê rao giảng, vì họ cũng nghe
biết và xem thấy các phép lạ ngài làm. Quỷ ô uế
đã ám nhiều người trong họ, lúc đó kêu
lớn tiếng và xuất ra. Nhiều người bất
toại và què quặt được chữa lành. Bởi
đó cả thành được vui mừng khôn tả”(Cv 8,5-8). Đồng thời,
các Tông đồ còn ban Bí tích Thêm sức cho họ: “Khi các Tông đồ ở
Giêrusalem nghe tin Samaria
đón nhận lời Thiên Chúa, liền gởi Phêrô và Gioan
đến với họ. Khi đến nơi, hai ngài
cầu nguyện cho họ được nhận lãnh Thánh
Thần: vì chưa có ai trong họ được nhận
lãnh Thánh Thần, họ mới chỉ được
chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ các ngài
đặt tay trên họ, và họ nhận lãnh Thánh Thần”(Cv 8,14-17).
Bài đọc II cũng cho chúng
ta biết, sau khi thấm nhuần giáo huấn của
Thầy Chí Thánh, Thánh Phêrô gửi thư dặn dò các kitô
hữu hãy sống niềm tin của mình như thế nào?
Đối với Thiên Chúa, Ngài dạy: “Anh em hãy tôn thờ Thiên Chúa trong lòng anh em” (x. 1Pr
3,15). Trước mặt những người lương
dân: “hãy luôn luôn sẵn sàng
trả lời thoả mãn cho mọi kẻ hỏi lý do
của niềm hy vọng nơi anh em, nhưng phải làm
cách hiền từ, kính cẩn, hãy có lương tâm ngay
chính, để những kẻ lăng mạ đời
sống đạo đức của anh em trong Ðức Kitô,
phải hổ thẹn về điều họ gièm pha anh
em”(1Pr 3, 15-16). Rồi, Ngài còn nhấn mạnh: “Vì nếu Thiên Chúa muốn, thì thà
làm việc thiện mà đau khổ còn hơn là làm
điều gian ác”(1Pr 3, 17).
Đó là lòng yêu mến một
cách vô vị lợi qua tinh thần giữ luật Chúa
của các Tông đồ. Còn đối với mỗi
người chúng ta thì sao?
Chúng ta có yêu mến Chúa và yêu tha
nhân một cách vô vị lợi không? Hay nói cách khác, chúng ta có
tuân giữ luật Chúa, một cách vô vị lợi không? Bởi
vì, tình yêu vô vị lợi là tình yêu không so đo tính toán. Tình
yêu vô vị lợi là tình yêu quảng đại, vị tha,
cho đi, luôn muốn cho người mình yêu được
hạnh phúc. Tình yêu vô vị lợi là tình yêu chỉ nghĩ
đến Chúa đến tha nhân chứ không nghĩ
đến mình. Tình yêu vô vị lợi là tình yêu đòi
hỏi phải có sự hy sinh. Pierre l’Ermite đã nói:
“Nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ
tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất hy sinh vô vị
lợi, đó là tình yêu thật.” Đó chính là tình yêu của
Đức Giêsu dành cho nhân loại mà chóp đỉnh của
tình yêu này là thí mạng sống cho nhân loại. Chính Ngài
đã nói: “Không có tình yêu nào lớn bằng tình yêu của người
chết cho người yêu” (Ga
15,13). Đó là tình yêu của Cha Maximiliên Kôlbê, chấp
nhận chết thay cho người bạn tù vì anh ta còn
vợ trẻ con thơ.
Hay chúng ta
đang yêu mến Chúa, yêu thương tha nhân bằng
một tình yêu vị lợi? Tức là tình yêu ích kỷ, chỉ nghĩ
đến mình, tìm hạnh phúc cho mình chứ không nghĩ
đến Chúa, đến tha nhân. Thậm chí có khi coi Chúa,
coi tha nhân như là phương tiện để phục
vụ cho mình. Thực tế, có rất nhiều
người đi đạo nhưng không giữ
đạo. Họ chỉ chạy đến với Chúa
với Giáo hội khi họ cần cho họ, như khi lãnh
nhận bí tích hôn phối, khi đưa xác người thân
đến nhà thờ. Có nhiều người nói yêu tha nhân
nhưng thực sự chỉ để lợi dụng tha
nhân khi cần, vì chưa bao giờ họ muốn cho tha nhân
được hạnh phúc.
Lạy
Chúa, chúng con cảm tạ Chúa, vì trước khi về
trời Chúa đã không để chúng con mồ côi nhưng
đã ở lại với chúng con bằng nhiều thể
nhiều cách. Xin cho chúng con luôn biết yêu mến Chúa
bằng việc tuân giữ giới răn và thực hành
lời của Chúa. Amen.
Lm.
Anthony Trung Thành
|