Mục tử nhân lành - JNK
Câu hỏi
gợi ý:
1.
Đức Giêsu nói: "Ai không đi qua
cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào,
người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn
ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục
tử". Từ câu này, ta có thể suy ra phong cách của
người mục tử chân chính phải như thế
nào?
2.
Người mục tử chân chính
phải có đức tính cốt yếu nào khiến mục
tử khác hẳn kẻ chăn chiên thuê hay bọn trộm
cắp chiên?
3.
Qua bài Tin Mừng này, Đức Giêsu
muốn nói với chính bạn điều gì? Ngài muốn
bạn làm gì và có thái độ nào đối với Ngài?
Suy tư
gợi ý:
1) Người mục tử trong
nếp sống của người Do Thái xưa
Để hiểu
được ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay, chúng
ta cần trở về với nếp sống của
người Do Thái thời Đức Giêsu. Thời ấy,
chiên được nuôi theo bầy hàng
trăm con tại những đồng cỏ xanh. Mục
tử hay người chăn chiên đi theo
bầy chiên và cùng sống với chiên ngày này qua ngày khác. Ban
ngày, mục tử dẫn đàn chiên đi từ
đồng cỏ này đến đồng cỏ khác
để chiên ăn cỏ. Ban đêm,
để tránh trộm cướp hay thú hoang, và để
tránh mưa tránh rét, mục tử đưa chiên vào một
nơi an toàn được gọi là "ràn chiên", thường
là một hang đá hay một khu đất trống có hàng
rào bằng đá hoặc bằng cây bao quanh. Người
chăn chiên ngủ ngay trong ràn chiên để bảo vệ
chiên, và thường ở ngay cửa ràn. Mục
tử và đàn chiên vì thế gắn bó với nhau rất
mật thiết. Mục tử chỉ biết có chiên
của mình, và chiên cũng chỉ biết và chỉ đi theo mục tử của mình, không chịu
theo bất kỳ ai khác.
2) Ý tứ của Đức Giêsu khi nói
dụ ngôn này
Đức Giêsu nói
dụ ngôn này với người Pharisiêu, sau khi đối
chất với họ về việc Ngài chữa lành
người mù từ thuở mới sinh (Ga 9). Nên nhớ: những
người Pharisiêu là những người lãnh đạo
tinh thần trong Do Thái giáo, tức đóng vai trò mục
tử đối với đàn chiên. Qua dụ ngôn này, Ngài
muốn cho họ thay hai thái độ trái nghịch nhau
giữa Ngài và họ trong cách đối xử với dân
chúng hay các tín đồ tôn giáo. Sự trái
nghịch nhau đó được thể hiện qua cách
ứng xử với người mù bẩm sinh.
*
Cách ứng xử của người Pharisiêu:
Khi thấy
người mù được chữa lành, thay vì mừng
cho anh ta đã thoát khỏi điều bất hạnh vô
cùng lớn lao, những người Pharisiêu
lại có một thái độ thù nghịch và bực
tức. Họ tỏ ra không có một chút tình
yêu, lòng thương xót hay sự cảm thông nào đối
với người mù được Đức Giêsu
chữa lành. Trái lại, họ đã dùng lề
luật để bắt bẻ vị ân
nhân đã chữa lành bệnh cho anh ta, đồng thời gây
khó dễ cho anh và gia đình anh vì việc được
chữa lành ấy. Đối với dân chúng,
họ không giống như người mục tử
đích thực đối với đàn chiên, mà giống
như người chăn chiên thuê. Kẻ chăn chiên
thuê không yêu thương gì chiên, vì chiên không phải là
của hắn (x. Ga 10,12-13). Vì thế,
trong tôn giáo, những người Pharisiêu lợi dụng
chức vụ lãnh đạo, hướng dẫn
để ăn trên ngồi trốc, đè đầu
đè cổ dân chúng (x. Mt 23,5-6). Họ
giảng dạy toàn những điều tốt nhưng
chỉ để cho dân chúng làm chứ không phải họ
làm (x. Mt 23,2-3). Họ
giảng dạy điều tốt vì chức vụ họ
đòi buộc phải làm như vậy, chứ không
phải vì lòng yêu mến sự thiện mà giảng dạy.
Đức Giêsu đã tố cáo việc họ lợi
dụng tôn giáo để bóc lột người nghèo,
người cô thân cô thế trong xã hội (23,4.14).
Nhưng họ vẫn muốn được mọi
người tôn trọng, ca tụng, suy tôn, nên phải
giả bộ đạo đức, phải làm những
việc tốt để khoa trương (23,5),
và muốn mọi người gọi mình là "Rabbi"
hay "Thầy" (23,6).
*
Cách ứng xử của Đức Giêsu
Đức Giêsu có
một thái độ khác hẳn, một thái độ nhân
từ đầy yêu thương đối với mọi
người, được thể hiện một cách
cụ thể trong việc Ngài chữa lành người mù. Ngài
sống và hành động vì tình yêu chứ không vì lề
luật. Tình yêu và lòng thương xót của Ngài đã
thúc bách Ngài bất chấp luật sa bát, bất chấp
sự phản đối và bực tức của
người Pharisiêu về việc lỗi luật của
Ngài, bất chấp những hậu quả rất bất
lợi có thể xảy đến cho Ngài. Ngài sẵn sàng
hy sinh bản thân để xoa dịu đau khổ,
để làm mọi người hạnh phúc. Qua dụ ngôn
này, Đức Giêsu muốn cho người Pharisiêu thấy
thái độ của họ đối với dân chúng,
với các tín đồ tôn giáo mà họ dẫn dắt
chẳng khác gì thái độ của kẻ trộm
cướp, của kẻ chăn thuê đối với
đàn chiên: chỉ muốn lợi dụng đàn chiên
chứ không hề yêu thương chúng. Còn thái độ
của Ngài mới là thái độ người mục
tử đích thật: Ngài yêu thương đàn chiên
đến nỗi sẵn sàng "hy sinh mạng sống
mình cho đàn chiên" (Ga 10,11). Nhưng rất tiếc là "họ không hiểu
những điều Người nói với họ".
3. Mục tử nhân lành (mục tử
thật) và kẻ trộm cướp (mục tử
giả)
Trong bài Tin Mừng
hôm nay, Đức Giêsu đưa ra một tiêu chuẩn
để phân biệt mục tử và kẻ trộm
cướp. Mục tử thì đi vào ràn chiên bằng
cửa ràn, nghĩa là với phong thái "đường
đường chính chính". Còn kẻ trộm hay kẻ
cướp thì không qua cửa nhưng trèo qua lối khác mà
vào, với phong thái lén lút, giả dối, không đàng hoàng.
Mà cửa ràn chiên, theo bài Tin Mừng hôm
nay, lại cũng chính là Đức Giêsu: "Tôi bảo
thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào". Vậy
để là mục tử đích thật, người
mục tử phải qua Đức Giêsu mà đến
với đàn chiên, nghĩa là phải là người yêu
mến Thiên Chúa, và phục vụ đàn chiên vì Ngài, không vì
một động lực nào khác.
Thật vậy,
đã là mục tử chân chính thì tư tưởng,
lời nói, hành động lúc nào cũng phải bộc
lộ được tính "quang minh chính đại",
hay "đường đường chính chính", luôn luôn
thẳng thắn, trung thực, đáng tin. Người
mục tử chân chính ít ra phải là một người
quân tử. Nếu tư tưởng,
lời nói và hành động như một kẻ tiểu
nhân, thích quanh co, lén lút, dối trá, sợ sự thật… thì
không xứng đáng làm mục tử. Hơn
thế nữa, người mục tử chân chính phải
có một tình yêu to tát, để có thể hy sinh đến
tận cùng cho những người mà mình lãnh đạo,
hướng dẫn. Đương nhiên
để thực hiện ý định của mình, kẻ
trộm cướp - những kẻ không có tình yêu
đối với chiên nhưng lại muốn hưởng
những quyền lợi của người mục tử
- phải giả làm mục tử. Hắn tìm
đủ mọi cách để chiên đi theo
mình. Nhưng chiên "không chịu theo
người lạ, mà chạy trốn, vì chúng không nhận
biết tiếng người lạ", không cảm
nhận được tình thương của hắn. Vì
mục tử giả hay kẻ chăn thuê chỉ biết
nghĩ đến bản thân mình, đến cái lợi
của mình, không nghĩ gì đến chiên, nên "khi
thấy sói đến, hắn bỏ chiên mà chạy. Sói
vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn" (Ga 10,12). Người mục tử đích
thực thì yêu thương chiên, sống vì chiên, và sẵn
sàng "hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên" (Ga 10,11) "để cho chiên được
sống và sống dồi dào" (10,10).
4. Đức Giêsu là mục tử
tốt lành
Ngoài mục đích
đối chất với bọn Pharisiêu, Đức Giêsu
còn dùng hình ảnh rất quen thuộc ấy đối
với người Do Thái để diễn tả sự
yêu thương gắn bó giữa Ngài và chúng ta, những
kẻ theo Ngài. Như
mục tử tốt lành yêu thương và chăm sóc chiên
mình thế nào, Ngài cũng yêu thương chăm sóc chúng ta
như vậy. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã dùng hình ảnh
người mục tử với đàn chiên để
diễn tả tương quan giữa Đấng Mê-si-a và
dân của Ngài: "Ta sẽ cho xuất hiện một
mục tử để chăn dắt chúng; nó là tôi tớ
của Ta: chính nó sẽ chăn dắt chúng; chính nó sẽ là
mục tử của chúng" (Ed 34,23).
Ngài chính là người mục tử được Thánh
Vịnh mô tả: "Chúa là mục tử chăn dắt
tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong
đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi
nằm nghỉ. Người đưa
tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường
ngay nẻo chính vì danh dự của Người.
Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn,
vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con
vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn
cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan
chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi
được ở đền Người những ngày
tháng, những năm dài triền miên" (Tv 23). Vì
thế, khi ý thức được Đức Giêsu luôn
chăm sóc mình như người mục tử tốt lành
chăm sóc đàn chiên, người Ki-tô hữu có thể
hết sức an tâm trước tất
cả mọi giông tố, thử thách trong cuộc
đời. Chúng ta hãy tin tưởng vào tình thương vô
biên và chân thật của Ngài, và an tâm phó
thác mọi sự cho Ngài, kể cả mạng sống,
hạnh phúc của mình. Nhờ đó cuộc đời ta
luôn luôn bình an, vui tươi, hạnh phúc, và Tin Mừng chúng
ta rao giảng mới đúng là tin mừng đích thực
(tin thật sự đem lại vui mừng!)
CẦU
NGUYỆN
Lạy
Cha, xin cho con nhận thức được tình
thương vô bờ và quyền năng vô biên của Cha,
của Đức Giêsu, để con có thể hoàn toàn tin
tưởng và phó thác mọi sự cho Cha, cho Đức
Giêsu. Nhờ đó, con luôn luôn bình an, hạnh
phúc bất chấp cuộc đời có sóng gió đến
đâu. Vì con luôn luôn tin tưởng rằng, con
được một bàn tay quyền uy
và yêu thương bảo vệ. Mọi biến cố
xảy ra, dù thế nào, cuối cùng đều ích lợi
cho con. Amen.
|