TRƯỚC
VÀNH MÓNG NGỰA
[đăng
báo ĐMHCG, số 369, tháng 5-2017, Dòng
CCT xuất bản tại Hoa Kỳ]
Khi
nói tới cụm từ “trước vành
móng ngựa”, người ta có ý
nói tới tòa án, liên quan pháp
luật và công lý, tất nhiên
“dính líu” tới tội lỗi.
Gọi là “vành móng ngựa”
vì “tấm chắn”, nơi bị cáo
đứng, có hình bán nguyệt như
móng sắt đóng vào chân ngựa.
Chẳng
ai dám ham cái “của nợ” ấy.
Người đứng trước vành móng
ngựa là phạm nhân hoặc tội nhân.
Tất nhiên cũng có những người
bị xử oan, và có những người
“được” xử đúng tội,
vì thế thẩm phán và hội đồng
xét xử phải là người chân
chính. Các phạm nhân lãnh án
khác nhau về mức án: Tử hình,
chung thân khổ sai, chung thân, vài chục
năm, vài tháng, vài tuần, vài
ngày, hoặc án treo.
Cân
Thiên Bình là biểu tượng của
tòa án. Cân này có độ
chính xác cao, nhưng nó phải được
điều khiển bởi người chí
công, vô tư và nhân hậu. Nếu
không thì rất nguy hiểm!
Tính
theo Tân Ước, có thể coi Chúa
Giêsu là người đầu tiên phải
ra trước tòa án và bị người
ta kết án, thậm chí là án tử
nhục hình – dù chính Ngài đã
chứng kiến một phụ nữ ngoại tình
bị người ta xét xử (Ga 8:1-11), kiểu
“tòa án lưu động”. Tất
nhiên là Chúa Giêsu đã bị
kết án sai một cách oan uổng vì
ý đồ thâm độc của bọn
thủ ác!
Tòa
án là đại diện công lý.
Tóa án đời có nhiều cấp
độ, từ thấp tới cao, tới tối
cao, và đặc biệt là Tòa án
Quốc tế. Nhưng có một loại tòa
án vô hình mà rất quan trọng,
hơn cả tòa án thượng cấp
hoặc tối cao. Tòa án này không
có thẩm phán, không có luật sư
bào chữa, không có nguyên đơn,
mà chỉ có bị cáo. Đó là
“tòa án lương tâm”. Và
người ta phải tự xử hàng ngày!
Ai
cũng một lần phải ra trước vành
móng ngựa, đúng ra là hai lần.
Thật ư? Nghe nói vậy, người ta sẽ
cãi tới bến: “Tôi
không hề phạm pháp, chưa hề đi
tù hoặc đứng trước vành
móng ngựa bao giờ!”.
Đúng vậy! Nhưng đừng vội
nóng. Vì đó là sự thật
minh nhiên, thật 100%. Ngày bạn phải
ra trước vành móng ngựa là Ngày
Phán Xét Chung. Lần thứ nhất là
lúc chết, lúc chịu “xét xử”
riêng. Tại Tòa Công Lý này
không có nguyên đơn, không có
luật sư bào chữa và không ai
được kháng cáo.
Thật
đáng sợ, vì “Thiên Chúa
cứ THEO SỰ THẬT mà xét xử”
(Rm 1:2) và “Thiên Chúa KHÔNG THIÊN
VỊ AI” (Rm 1:11; Hc 35:12). Đừng biện hộ
rằng tôi thế này hoặc thế nọ,
tôi đã thực hiện nhiều thứ
công ích xã hội. Không thể biện
minh hoặc biện hộ, không thể ỷ
công sức hoặc tài năng, tất cả
mọi chi tiết đều được “ghi
âm” và “thu hình” bằng
loại “máy” cực kỳ tối tân
là loại máy “siêu vô hình”.
Và đừng giả nai hoặc cố ý
quên rằng Thiên Chúa là “Đấng
thấu suốt mọi sự” (2 Mcb 7:35; 2 Mcb
9:5; 2 Mcb 15:2; 1 Cr 2:10).
Trình
thuật Mt 25:31-46 là cảnh Phán Xét
Chung với hai hình ảnh đối nghịch:
Chiên và Dê. Hai hình ảnh quen thuộc,
rõ ràng và thực tế.
Như
một vở bi-hài-kịch, Thánh sử
Mátthêu kể: Khi Con Người ĐẾN
TRONG VINH QUANG của Người, có tất cả
các thiên sứ theo hầu, bấy giờ
Người sẽ NGỰ LÊN NGAI VINH HIỂN
của Người. Các dân thiên hạ
sẽ được TẬP HỢP trước
mặt Người, và Người sẽ TÁCH
BIỆT HỌ với nhau, như mục tử TÁCH
BIỆT CHIÊN VỚI DÊ. Người sẽ
cho chiên đứng bên phải Người,
còn dê ở bên trái.
Bấy
giờ Đức Vua sẽ phán cùng những
người ở bên phải: “Nào,
những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến
thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn
cho các ngươi ngay từ thuở tạo
thiên lập địa. Vì xưa Ta đói,
các ngươi đã cho ăn; Ta khát,
các ngươi đã cho uống; Ta là
khách lạ, các ngươi đã tiếp
rước; Ta trần truồng, các ngươi
đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi
đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các
ngươi đến hỏi han” (Mt
25:34-36). Bấy giờ những người công
chính sẽ thưa: “Lạy
Chúa, có bao giờ chúng con đã
thấy Chúa đói mà cho ăn, khát
mà cho uống; có bao giờ đã thấy
Chúa là khách lạ mà tiếp
rước; hoặc trần truồng mà cho
mặc? Có bao giờ chúng con đã
thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù,
mà đến hỏi han đâu?” (Mt
25:37-39).
Người
chân chính thì khiêm nhường,
không dám nhận mình là người
tốt lành, đạo đức hoặc thánh
thiện. Họ thật dễ thương! Dù
họ nói vậy, nhưng Đức Vua sẽ
đáp lại: “Ta
bảo thật các ngươi: mỗi lần
các ngươi làm như thế cho một
trong những ANH EM BÉ NHỎ NHẤTcủa Ta
đây, là các ngươi đã
LÀM CHO CHÍNH TAvậy” (Mt
25:40).
Rồi
Đức Vua sẽ phán cùng những người
ở bên trái: “QUÂN
BỊ NGUYỀN RỦA KIA, đi đi cho khuất
mắt Ta mà vào lửa đời đời,
nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và
các sứ thần của nó. Vì xưa
Ta đói, các ngươi đã không
cho ăn; Ta khát, các ngươi đã
không cho uống; Ta là khách lạ, các
ngươi đã không tiếp rước;
Ta trần truồng, các ngươi đã
không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi
tù, các ngươi đã chẳng thăm
viếng” (Mt
25:41-43). Bấy giờ những người ấy
cũng sẽ thưa: “Lạy
Chúa, có bao giờ chúng con đã
thấy Chúa đói, khát, hoặc là
khách lạ, hoặc trần truồng, đau
yếu hay ngồi tù, mà không phục
vụ Chúa đâu?” (Mt
25:41-44). Kẻ xấu nào cũng “già
mồm”, nói dối như Cuội, cãi
như xé vải. Nhưngvô ích! Và
Người sẽ đáp lại họ: “Ta
bảo thật các ngươi: mỗi lần
các ngươi KHÔNG LÀM như thế
cho một trong những người bé nhỏ
nhất đây, là các ngươi đã
KHÔNG LÀM CHO CHÍNH TA vậy” (Mt
25:45).
Cuối
cùng, hai năm rõ mười, và hai
thái cực khác nhau: “Người
bất chính ra đi để CHỊU CỰC
HÌNH MUÔN KIẾP, còn những người
công chính ra đi để HƯỞNG SỰ
SỐNG MUÔN ĐỜI” (Mt
25:46). Mức án đã rõ, không thể
thay đổi!
Thánh
sử Mátthêu tường trình rõ
ràng như một vở kịch hoặc một
bộ phim sống động. Chúng ta thấy
Thiên Chúa không xét đến chức
vụ, công to việc lớn, tài năng,…
mà Ngài chú trọng VIỆC BÁC ÁI
thực sự (dạng “cao cấp” hơn
công bằng và bố thí), biết
chạnh lòng thương tha nhân, biết
chân thành yêu thương và chia sẻ
mọi thứ với những người khốn
khổ.
Thánh
sử Luca là một lương y nên ngài
cũng có lòng nhân hậu. Trình
thuật Lc 10:30-37 là câu chuyện về
người Samari nhân lành. Chính người
Samaria là người đã động
lòng trắc ẩn và hành động
cụ thể. Dụ ngôn này cũng là
dụ ngôn “khó ưa”, vì ai
cũng cảm thấy “nhột gáy”,
càng làm lớn càng sợ tái mặt!
Có người “sợ phát run”,
nhưng có người lại “sợ phát
điên”. Còn may, nếu thấy “sợ
phát run”; nhưng rất nguy hiểm nếu
thấy “sợ phát điên”.
Thánh
sử Luca kể: Một người kia từ
Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường
bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng
lột sạch người ấy, đánh nhừ
tử, rồi bỏ đi, để mặc người
ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ,
có THẦY TƯ TẾ cũng đi xuống
trên con đường ấy. Trông thấy
người này, ông TRÁNH QUA bên kia
mà đi. Rồi cũng thế, một THẦY
LÊ-VI đi tới chỗ ấy, cũng thấy,
cũng TRÁNH QUA bên kia mà đi.
Nhưng
một người Samari kia đi đường,
tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy,
và CHẠNH LÒNG THƯƠNG. Ông ta lại
gần, lấy dầu lấy rượu đổ
lên vết thương cho người ấy và
băng bó lại, rồi đặt người
ấy trên lưng lừa của mình, ĐƯA
VỀ QUÁN TRỌ MÀ SĂN SÓC. Hôm
sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ
quán và nói: “Nhờ
bác săn sóc cho người này, có
tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở
về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”.
Chúa
Giêsu hỏiai trong ba người đó đã
tỏ ra là người thân cận với
người đã bị rơi vào tay kẻ
cướp. Người thông luật trả
lời: “Chính
là kẻ đã thực thi lòng thương
xót đối với người ấy”.
Nếu là chúng ta thì chắc hẳn
chúng ta cũng trả lời ngay như vậy,
dù chúng ta không giỏi, chỉ là
dân đen thôi. Và Đức Giêsu
bảo mỗi chúng ta: “Hãy
đi, và cũng hãy làm như vậy”.
Thiên
Chúa là tình yêu (1 Ga 4:8 và 16).
Luật
Chúa là Luật Yêu. Cả cuộc đời
chỉ cần YÊU là đủ, là giữ
trọn các luật khác (Rm 13:10). Thật
vậy, đức mến quan trọng nhất, cả
đời này và đời sau, vì
trong Nước Chúa không cần đức
tin và đức cậy, mà chỉ còn
đức mến.
Lạy
Thiên Chúa tình yêu, chúng con xấu
hổ quá! Xin thương xót, tha thứ
và biến đổi chúng con. Xin Chúa
Thánh Thần tác động để
chúng con chấn chỉnh cho kịp Giờ Chúa
Đến, trước khi chúng con phải đứng
trước vành móng ngựa. Chúng con
cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô,
Thiên Chúa cứu độ chúng con.
Amen.
TRẦM
THIÊN THU
|