HẬN
THỨC ƠN THIÊN TRIỆU
[đăng
báo ĐMHCG, số 368, tháng 4-2017, Dòng
CCT xuất bản tại Hoa Kỳ]
Nhận
thức ơn thiên triệu là nhận thức
ơn gọi – nhất là ơn gọi linh
mục – là gì? Mỗi khi các chủng
sinh bước vào niên học mới và
tái quyết định trở thành linh
mục, rất nhiều thanh niên Công
giáo tiếp tục công việc đã
đưa họ tới chủng viện: Nhận
thức ơn thiên triệu linh mục.
Họ tiếp tục được giúp đỡ
từ bạn bè, gia đình, các vị
linh hướng và các vị hữu trách
đào tạo.
Nếu
bạn quan tâm quá trình này (hoặc
bạn đang giúp đỡ người khác
theo đuổi ơn gọi này), có những
vấn đề liên quan giới tính và
sự chín chắn về cảm xúc mà
bạn nên tự vấn, thảo luận cởi
mở và chân thành với các vị
linh hướng và các vị hữu trách.
Câu
trả lời quả quyết đối với
bất kỳ vấn đề nào đều
cho thấy lĩnh vực cần chú ý
nhiều hơn trước khi vào tiểu chủng
viện, đặc biệt là trước khi
vào đại chủng viện, hoặc tham dự
các khóa huấn luyện tiền thần
học. Đồng thời điều đó
cũng có thể cho thấy rằng bạn
KHÔNG có ơn gọi làm linh mục.
1.
HƠN BẤT CỨ THỨ GÌ KHÁC, ƯỚC
MUỐN TRỞ THÀNH LINH MỤC CÓ THỰC
SỰ CHỈ VÌ BẠN MUỐN “PHỤC
VỤ” NGƯỜI KHÁC?
Động
lực thúc đẩy như vậy rất
đáng hoan nghênh. Các ứng viên
tiến tới chức linh mục chắc chắn
phải có ước muốn phục vụ
tha nhân. Có những trường hợp gọi
là “ơn gọi muộn” – những
đàn ông chưa kết hôn hoặc đã
góa vợ, họ cảm thấy việc trở
nên linh mục là con đường để
họ “phục vụ” tốt hơn trong
Giáo hội. Động lực thúc đẩy
như vậy cũng đáng hoan nghênh,
nhưng chưa đủ để chứng minh
đích thực là ơn gọi linh mục.
Vấn
đề chính đối với một ứng
viên tiến tới chức linh mục luôn
luôn thế này: Bạn đã trải
nghiệm “tiếng gọi” của Đức
Kitô? Chữ “vocation” (ơn gọi, ơn
thiên triệu, thiên hướng) có
nguồn gốc từ La ngữ là động
từ “vocare” – kêu gọi, như
Thánh sử Mác-cô tường
thuật: “Người
lên núi và GỌI đến với
Người những kẻ Người muốn. Và
các ông đến với Người. Người
lập Nhóm Mười Hai, để các
ông ở với Người và để
Người sai các ông đi rao giảng” (Mc
3:13-14).
Giáo
hội luôn biết lời mời gọi này
của Đức Kitô như động lực
đầu tiên đối với việc muốn
trở thành linh mục.Tuy nhiên, THỰC
TẾ VẪN CÓ NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC
PHONG CHỨC VÌ CÁC ĐỘNG LỰC KHÁC,
ĐÔI KHI CÓ HẠI CHO GIÁO DÂN.
Đây là lý do cần chú ý
vấn đề “đồng nhận thức”
(co-discernment): Bạn là ứng viên và
những người đại diện Giáo
hội cùng nhận biết bạn có ơn
gọi trở nên linh mục hay không. Nhưng
buồn thay, VẪN
CÓ NHỮNG NGƯỜI THEO ĐUỔI CHỨC
LINH MỤC VÌ CÁC LÝ DO SAI TRÁI
(for all the wrong reasons). Vì thế, trong tài
liệu PPF (Program of Priestly Formation– Chương
trình Đào tạo Linh mục, xuất bản
lần thứ 5), Hội đồng Giám mục
Hoa Kỳ (United States Conference of Catholic Bishops) đã
nói:“Các
ứng viên có thể tiến tới chức
linh mục phải cầu nguyện với Thiên
Chúa và nói với Giáo hội về
việc nhận biết ơn gọi của mình.
Sự liên kết này rất quan trọng
vì đó là thiên hướng chắc
chắn để biết mối quan hệ giữa
con người và Thiên Chúa theo cách
thức cá nhân và tập trung, như
thể tiếng Chúa gọi đạt tới
cá nhân bằng con đường trực
tiếp, không có cách nào khác
là qua cộng đồng” (Pastores
dabo vobis, 37).
Cuối cùng, được hướng dẫn
đúng, cuộc đối thoại này có
thể làm cho ứng viên được
chấp nhận, hoàn tất giai đoạn đầu
về sự nhận thức ơn gọi”
(PPF,
số 33).
Vấn
đề chính trong sự “đồng nhận
thức” này là tiết lộ sự
thúc đẩy nổi trội về lời
mời gọi nhân đạo của chức
linh mục Công giáo – tức là
“việc phục vụ tha nhân”. Đối
với người được mời gọi
tiến tới chức linh mục, phải có
động lực thúc đẩy sâu xa từ
đáy lòng, động lực chính
trong đời sống, ngoài các động
lực khác với ước muốn phục
vụ người khác. Đây là vài
động lực thúc đẩy cần
thiết:
– Yêu
mến Thánh Thể.
– Ước
muốn cử hành các Bí tích cho
dân Chúa.
– Ước
muốn xây dựng Giáo hội và thúc
đẩy các mối quan hệ sâu xa trong
giáo xứ.
– Ước
muốntrở nên người tôi tớ và
người hướng dẫn tâm linh cho người
khác.
– Ước
muốn sống tốt lành theo kỷ luật
Kitô giáo.
Các
động lực này còn phôi thai khi
bạn chuẩn bị vào chủng viện. Nhưng
khả năng xác định các động
lực này và “liên kết” các
điểm với nhau để cấu thành
chứng cớ đáng kể rằng ơn gọi
của bạn là xác thực.
Cuối
cùng, động lực ban đầu của
bạn phải nổi bật trong mối quan hệ
thân mật với Đức Giêsu Kitô
hằng sống và phục sinh, Đấng đến
gần bạn trên “bờ biển cuộc
đời bạn” và lên “chiếc
thuyền cuộc đời bạn”. Từ
đó, bạn có thể chia sẻ với
người khác về hành trình ơn
gọi linh mục của bạn rằng đó
là do
lòng yêu mến Chúa Kitô,
như Ngài đã đón nhận Giáo
hội là Vị Hôn Thê, và SUỐT
ĐỜI PHỤC VỤ GIÁO HỘI VÔ
ĐIỀU KIỆN (x.
Mt 20:28; Mc 10:45). ĐỪNG
BAO GIỜ CÓ Ý HƯỞNG THỤ HOẶC
AN NHÀN,
dù chỉ đối với điều nhỏ
bé nhất. Chúa Giêsu đã nêu
gương: PHỤC VỤ CHỨ KHÔNG HƯỞNG
THỤ (Mt 20:28; Mc 10:45).
Như
vậy cũng chưa đủ đối với
ứng viên tiến tới chức linh mục
nếu chỉ quyết định muốn “phục
vụ người khác” với tư cách
một linh mục. Trái tim của họ phải
gắn chặt vào Chúa Giêsu, Đấng
mà họ nhận thức được lời
mời gọi bất khả từ là bước
theo sát Ngài qua chức linh mục.
2.
BẠN CÓ CẢM THẤY HÔN NHÂN KHÔNG
HẤP DẪN?
Nếu
vậy, bạn “có vấn đề”
đấy. Có thể nói thẳng thắn: “Nếu
bạn cảm thấy hôn nhân không hấp
dẫn, bạn KHÔNG
NÊN ƯỚC MUỐN TRỞ THÀNH LINH MỤC”.
Hôn nhân là “ơn gọi tự
nhiên” nhằm duy trì nòi giống
và bảo tồn nhân loại. Hôn nhân
lãng mạn, thú vị, nhưng cũng rất
thực tế (xung đột, cãi nhau, tiền
bạc, bệnh tật, lo lắng, phiền phức,
nhịn nhục,... và nhiều thứ rắc
rối khác). Hôn nhân hấp dẫn lắm,
nhưng bạn từ khước vẻ hấp dẫn
đó thì mới đáng nói, đáng
trân trọng.
Chức
linh mục không dành cho những người
coi đó là “sự thiếu sót”
vìtính cách yếu đuối nên
khó hoặc không thể giao tiếp với
phụ nữ. Chức linh mục cũng không
dành cho những người không yêu
quý trẻ em. Nếu bạn cảm thấy hôn
nhân không hấp dẫn, không thích
làm người chồng tốt và người
cha tốt, bạn cần tập trung để khám
phá lý do bạn muốn trở thành
linh mục để làm gì. Điều
này cần được giúp đỡ
của giới chuyên môn.
3.
BẠN CÓ CẢM THẤY THÂN MẬT VỚI
NGƯỜI KHÁC LÀ KHÓ KHĂN HOẶC
GHÊ TỞM?
Câu
trả lời ở đây thực sự là
“cờ đỏ” (dấu hiệu báo
động). Người ta không thể đánh
giá thấp tầm quan trọng của “2002
John Jay Report on the Causes and Context of the Sexual Abuse of
Minors by Catholic Priests” (Tường trình của
John Jay về Nguyên nhân và Phạm vi Lạm
dụng Tình dục Thiếu niên của các
Linh mục Công giáo Năm 2002). Bản tường
trình này ghi: “Các
linh mục lạm dụng tình dục các
thiếu niên không khác với các
linh mục khác về tâm lý hoặc
trí tuệ nhưng dễ bị tổn thương,
thiếu sự thân mật, và thiếu các
mối quan hệ thân thiết trước và
trong thời gian học ở chủng viện”. Tôi
không có ý nói về bất cứ
sự không thoải mái nào trong các
mối quan hệ giữa các cá nhân
với nhau hoặc sự thiếu khả năng
diễn tảvà giao tiếp cảm xúc đều
có thể cho thấy rằng cá nhân đó
là người lạm dụng tình
dục. Nhưng bản
tường trình này đã “soi
sáng” về tầm quan trọng của việc
chuẩn bị cho chức linh mục mà nhiều
thập niên qua đã bị khinh suất:
Khả năng của chủng sinh (và cuối
cùng là linh mục) được phong phú
hóa bằng cách giao tiếp tình cảm
với người khác trong các mối
quan hệ lành mạnh và tốt đẹp.
Thật
vậy, linh mục không thểphát triển
sự cam kết sống độc thân khiết
tịnh mà không có vài người
bạn thân thiết, cả nam và nữ. Sự
thân mật tình cảm không là thân
mật giới tính,
và chắc chắn điều này phải
được phân biệt đúng đắn
về biên độ giữa các cá
nhân với nhau. Cũng đừng lầm
lẫn sự thân mật tình cảm
(emotional intimacy) với sự lệ thuộc tình
cảm (emotional dependency). Hơn nữa, ở
đây chúng ta đang nói về mức
độ giao tiếp giữa các cá nhân
với nhau thích hợp với tình trạng
độc thân khiết tịnh. Nói cách
khác, đó là cách thể hiện
quan trọng về những gì chúng ta gọi
là “chín muồi tình cảm”
(affective maturity).
Như
đã nói rõ trong PPF, cùng với
các yếu tố khác, sự chín muồi
tình cảm dẫn tới điều này:“Đào
sâu khả năngTRAO và NHẬN tình
yêu, đó là khả năng tự vạch
trần thích hợp (capacity of appropriate
self-disclosure), khả năng phát triển và
duy trìtình bạn lành mạnh, khả
năng đặt ra biên độ thích hợp
bằng cách quyết không hành động
theo cảm xúc lãng mạn và tự
kiềm chế trước cơn cám dỗ”
(PPF,
số 94).
Chúng
ta muốn thấy các ứng viên tiến
tới chức linh mục vẫn phát triển
tình bạn với cả nam lẫn nữ, với
cả người độc thân và người
đã kết hôn, nhưng họ phải
biết kiềm chế và được nâng
đỡ trong tình bạnlành mạnh.
4.
BẠN CÓ CẢM THẤY KHÓ TIẾT DỤC,
HOẶC CÓ THƯỜNG XEM HÌNH ẢNH
“ĐEN”?
Nếu
có, rất nguy hiểm! Ai cũng muốn rằng
ứng viên không thể hò hẹn (tình
cảm), có thể duy trì và bảo vệ
đức khiết tịnh trong lành trước
khi bắt đầu bước chân vào
chủng viện.
Người
ta cũng mong muốn rằng chiến đấu
với văn hóa khiêu dâm cần có
thời gian để vượt qua. Chủng viện
là môi trường phát triển nhân
đức khiết tịnh, xử lý các
cuộc chiến tương đối bình
thường về lĩnh vực này. Nhưng
chủng viện không là nơi để
chiến đấu với các vấn đề
liên quan giới tính chưa được
quyết định. Thái độ ám ảnh
hoặc miễn cưỡng phải được
loại trừ trước khi vào chủng
viện, nhất là các vấn đề
liên quan hình ảnh đồi trụy trên
Internet hoặc báo chí. Người
nghiện hình ảnh khiêu dâm chứng
tỏ rằng họ không thích hợp để
tiến tới chức linh mục.
5.
BẠN CÓ CHẤP NHẬN VÀ TÔN TRỌNG
LUẬT ĐỘC THÂN CỦA GIÁO HỘI?
BẠN CÓ MUỐN LUẬT NÀY THAY ĐỔI
TRONG TRIỀU ĐẠI GIÁO HOÀNG NÀY
HOẶC GIÁO HOÀNG TRONG TƯƠNG LAI?
Bạn
phải tự vấn xem mình có ơn gọi
sống độc thân hay không – ơn
gọi này khác với ơn gọi trở
thành linh mục. Ở mức độ nào
đó, bạn phải biết rõ sự
độc thân có ý nghĩa gì mà
bạn thề hứa tuân thủ – cùng
với các cám dỗ và các sự
chiến đấu khác – để phát
triển sự khao khát đức khiết tịnh
suốt đời và khước từ sự
hấp dẫn của tình dục. Chắc chắn
bạn không thể có lương tâm
tốt trong bất cứ giai đoạn nào
qua quá trình đào tạo ở chủng
viện khi bạn giấu giếm và muốn
thân mật tính dục với người
khác, ngay cả sau khi thụ phong linh mục
cũng vậy.
Do
đó, chủng sinh phải có khả năng
khám phá vẻ đẹp của sự độc
thân theo nền tảng thần học, phải
nhận thức được tình trạng
độc thân, phải biết cảm thấy
thoải mái khi sống độc thân và
khiết tịnh ngay cả khi giao tiếp với
những bạn nữ đã kết hôn
hoặc độc thân. Thật vậy, độc
thân được hiểu là một tặng
phẩm, và là con đường hình
thành sự phát triển con người.
Nói
cách khác, ứng viên tiến tới
chức linh mục thực sự cần coi tình
trạng độc thân có sức thu hút
mạnh và có ý nghĩa sâu sắc
về tâm linh – cách diễn tả lòng
yêu mến Chúa Kitô và Giáo hội.
Trong tài liệu PPF, Hội đồng Giám
mục Hoa Kỳ nói: “Ứng
viên phải được chuẩn bị chấp
nhận giáo huấn của Giáo hội về
bản năng giới tính, quyết định
làm chủ các cơn cám dỗ về
tình dục, được chuẩn bị sống
khiết tịnh trong mọi thứ tình bạn,
và cuối cùng, được hướng
dẫn kiềm chế sự ham muốn để
có thể sống lành mạnh, sống độc
thân khiết tịnh bằng đức tin và
tình yêu vị tha: Biết quan tâm người
khác, giúp họ đạt tới mức
cao nhất, không đầu hàng, và đầu
tư mọi năng lực để chỉ phục
vụ Vương Quốc của Thiên Chúa”
(PPF,
số 94).
Ứng
viên chín muồi về tình cảm sẽ
phát triển các năng lực chính
yếu, theo đuổi và nỗ lực vì
mục đích tốt lành của dân
Chúa, để thánh hóa họ và
tự thánh hóa. Ứng viên nhận
thức được như vậy có thể
duy trì thói quen thân mật với Đức
Kitô qua việc cầu nguyện hằng ngày.
6.
NGOÀI CÁC GIỜ KINH CHÍNH THỨC, BẠN
CÓ NHU CẦU DÀNH THỜI GIAN ĐỂ CẦU
NGUYỆN RIÊNG?
Đời
sống cầu nguyện là “chìa khóa”
để phát triển sự chín muồi
về tình cảm. Tại sao? Bởi vì
sống thân mật với Thiên Chúa Ba
Ngôi là “mối quan hệ riêng với
Thiên Chúa,và cũng là giao tiếp
với Giáo hội, Nhiệm Thể Đức
Kitô” (PPF, số 108). Hằng ngày
kết hiệp thân mật với Đức
Kitô bằng việc cầu nguyện riêng
(cầu nguyện thầm, suy niệm, đọc
Kinh Thánh, trong phòng riêng hoặc
trước Thánh Thể) sẽ giúp ứng
viên ước muốn kết hiệp với
Chúa Ba Ngôi, Đấng kêu gọi họ.
Điều đó cũng giúp ứng viên
chín muồi về tình cảm và sinh
hoa trái khi kết hiệp với Giáo
hội. Cầu nguyện là “địa
điểm” mà linh mục hướng linh
hồn tới Đấng Yêu Dấu, và
giữ họ theo hướng đúng là
hướng về dân Chúa, dám chết
vì đoàn chiên.
Trước
mặt Thiên Chúa và với lương
tâm đúng đắn, bạn phải trả
lời “không” hoặc “có”
đối với 6 câu hỏi trên đây.
Hãy tìn thác cuộc đời bạn
vào Thiên Chúa, Đấng là Nguồn
Mạch mọi Sự Thiện. Hãy phó thác
cuộc đời bạn cho Đức Maria, Mẹ
của các linh mục, xin Mẹ hướng
dẫn bạn trên hành trình trở
thành linh mục của Thiên Chúa hằng
hữu và hằng sinh. Và đừng
bao giờ quên noi gương Thánh linh mục
Gioan Maria Vianney, bổn mạng các linh mục.
Thiết
tưởng cũng nên nói thêm rằng
Thánh Giáo hoàng Grêgôriô
(540?-604) đã thẳng
thắn
và cương
quyết cách chức các linh mục bất
xứng,
cấm
lấy tiền từ nhiều loại lễ,
nhưng ngài lấy
tiền của Tòa Thánh giúp các
tù nhân của vua Lombard,
chăm
sóc những người Do Thái bị hành
hạ,
giúp
đỡ các nạn nhân bị dịch
bệnh và nạn đói.
Ngài nổi tiếng là nhà
cải cách phụng vụ
và củng
cố tín lý.
Khi Rôma bị tấn công, chính ngài
đã dám đi chất vấn vua Lombard.
[Ngài còn nổi tiếng về Bình Ca
– gọi là nhạc Gregorian, loại nhạc
đặc trưng của Giáo hội Công
giáo].
Thánh
giám mục Êusêbiô Vercelli (283?-371)
nhận xét: “Cách
tốt nhất để THÁNH
HÓA GIÁO DÂN là
PHẢI cho giáo dân thấy GIÁO
SĨ VỮNG MẠNH CÁC NHÂN ĐỨC và
SỐNG
CỘNG ĐOÀN”.
Đó mới là mục tử hết mình
vì đoàn chiên. Còn Thánh
linh mục Don Bosco tâm niệm: “Da
mihi animas, coetera tolle – xin cho tôi các linh
hồn, còn mọi sự khác cứ lấy
đi”.
Ước
gì Giáo hội có được những
mục tử “lành nghề” để
phục vụ Thiên Chúa và Dân Chúa
một cách triệt để theo gương
Thầy Chí Thánh Giêsu!
TRẦM
THIÊN THU
(chuyển
ngữ từ Fatherberg.com)
|