Đức
Giêsu hiện ra
với hai môn đệ Emmau
(Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Sau khi các
phụ nữ đã mang sứ điệp Phục Sinh
đến cho cộng đoàn (23,55–24,12), tác giả Luca mô
tả hai cuộc hiện ra của Đức Giêsu Phục
Sinh: Đức Giêsu cùng đi đường với hai môn
đệ Emmau (24,13-35) và hiện ra giữa cộng đoàn
(24,36-53).
Riêng cho
truyện Emmau, chúng ta không có đoạn văn Nhất Lãm
song song nào cả. Bản văn có ngữ cảnh sau: Sau khi
các phụ nữ đã viếng (cả Phêrô: 24,12) ngôi
mộ mở và trống của Đức Giêsu (24,2t), ta
biết rằng Đức Giêsu đã sống lại và
đang sống, nên không thể gặp Người giữa
kẻ chết. Nhưng ta không biết là có thể gặp
Người ở đâu và gặp Người cách nào. Chính
Đức Giêsu đã lấy sáng kiến và hiện ra trong
những hoàn cảnh khác nhau.
2.- Bố cục
Bản văn
có thể chia thành bốn phần:
1) Hai môn
đệ đi về Emmau (24,13-14);
2) Đồng
hành và đối thoại với Đức Giêsu (24,15-27);
3) Nhận ra
Đức Giêsu khi Người bẻ bánh (24,28-32);
4) Trở
lại Giêrusalem (24,33-35).
3.- Vài điểm chú giải
- Emmau (13): Bản văn cho biết Emmau
cách Giêrusalem 60 dặm (stadious), tức 11,5 cây số
(mộtdặm = 192m). Đến nay người ta vẫn
chưa xác định được chắc chắn
đây là làng nào: là làng Amwas = Nicôpôli (176 dặm = 32,5cs; 1 Mcb
3,40.57: Ammaous), hay là làng Kulonje (30 dặm = 5,5 cs; Phơlaviô
Gioxép, Chiến tranh Do Thái VII 6,6 § 217: Ammaous), hoặc là làng
Kubêbe (64 dặm = 12cs; vào thời các thập tự quân:
Castellum Emmaus)?
- (Và) xảy ra là
đang lúc (15):
Trong chương 24, có bốn lần tác giả Luca dùng
cụm từ “kai egeneto en tô…”, mà Bản dịch CGKPV không
dịch, còn cha Thuấn thì dịch là “đang khi…”, “xảy
ra là đang lúc…”, “và xảy ra là khi…”, “và xảy ra là đang
khi…”. Tác giả dùng công thức này để dẫn vào
những sự cố đặc biệt: hai chứng nhân
xuất hiện (c. 4), Đức Giêsu đến cùng đi
với hai môn đệ (c. 15), Đức Giêsu tỏ ra
như là người chủ tọa bữa ăn (c. 30), và
Đức Giêsu được đưa lên trời (c. 51).
- trò chuyện và bàn tán
(15): Homilein, “trò
chuyện”; syzêtein, “tìm với nhau, tranh luận, tranh cãi; bàn
tán”; động từ syzêtein lại được dùng
trong Cv 15,7.10, là nơi nhắc đến những tranh cãi
kịch liệt trong Hội Thánh tiên khởi về vấn
đề cắt bì. Như thế, câu chuyện tỏ ra
sôi nổi và dường như các ông không hoàn toàn
đồng ý với nhau.
- vẻ mặt buồn
rầu (c. 17):
Skythrôpos do skythros, “buồn rầu” và ôps, “gương
mặt”.
- chẳng hiểu gì
(25): Anoêtos có
nghĩa là “thiếu khả năng suy nghĩ; không có
đầu óc; kém thông minh; ngu xuẩn” (x. Gl 3,1: ô anoêtoi
Galatai, “hỡi những người Galát ngu xuẩn”). Sau
này, ở 24,45, tác giả cho biết Đức Giêsu “mở
trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”.
- lòng trí thật là
chậm tin (25):
dịch sát là “chậm (bradeis) về trái tim để tin”.
“Trái tim” (kardia), trung tâm của ý chí, trí tuệ và tình cảm
của con người (x. 24,25.32.38). Động từ
pisteuein, “tin” (Mt 11x, Mc 14x, Lc 9x, Ga 98x) chỉ được
Lc dùng ở đây (danh từ pistis, “đức tin”: Mt 8x, Mc
5x, Lc 11x, Ga 0x). Trong Lc, động từ này luôn quy về
lời nói, ở đây là lời các ngôn sứ. “Tin” có
nghĩa là cương quyết chấp nhận giá trị
của lời nói.
- Đấng Kitô
lại chẳng phải chịu khổ hình (26): “Phải” đây là động
từ dei ở thì vị hoàn (edei): động từ nay
diễn tả mộtđiều cần thiết thuộc
về kế hoạch của Thiên Chúa. Xem 9,22; 17,25; 22,37;
24,7.44.
- trong tất cả Sách
Thánh, bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các
ngôn sứ (27): “Ông
Môsê” là Bộ Ngũ Thư; “các ngôn sứ” là các sách
sử và các sách ngôn sứ; “tất cả Sách Thánh” là
những sách còn lại của Cựu Ước. Xem cách
chia Kinh Thánh Do Thái thành ba phần ở 24,44.
- giải thích (27): Diermêneuein có nghĩa là “giải
nghĩa, giải thích, chú giải”. Động từ này
chỉ được Lc dùng ở đây; ở Cv 9,36,
động từ này có nghĩa là “dịch”, và ở 1 Cr 14,
5.13.27, có nghĩa là “giải thích điều
được nói bằng các tiếng lạ; giúp hiểu
điều người ta không tự mình hiểu
được; đưa đến chỗ hiểu
biết”. Những công thức có nghĩa tương tự
là: “giải thích (dianoigô tas graphas, “mở trọn vẹn,
mở toang Kinh Thánh”) Kinh Thánh cho chúng ta” (24,32) và
“Người mở trí (dianoigô ton noun, “mở rộng trí”)
cho các ông hiểu Kinh Thánh” (24,45).
- Mắt họ liền
mở ra (31):
Dịch sát là “mắt họ đã được mở ra”
(diênoichthêsan, aor. pass. của động từ dianoigô,
“mở trọn vẹn”). Đây là thái bị động
thay tên Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hai môn đệ đi
về Emmau (13-14)
Bản văn
mở ra với “hai người trong nhóm môn đệ” đang
bước đi và trò chuyện. Sau đó, ta
được biết mộtngười tên là Cơlêôpát
(c. 18). Họ không thuộc về Nhóm Mười Một,
nhưng thuộc về nhóm những người khác
đang cùng ở với Nhóm Mười Một (x. 24,11). Qua
lời họ kể (24,22-24), họ chứng tỏ họ
biết tất cả những gì đã được
kể ở 24,1-12; họ biết những gì cộng
đoàn biết và sẽ góp phần làm cho sự hiểu
biết này gia tăng thêm.
Về thời
gian, đây “cũng ngày hôm ấy”, tức ngày thứ
nhất trong tuần (24,1). Họ cho biết là họ
chỉ ra đi khi đã kiểm chứng tất cả các
sự cố của 24,1-12. Bây giờ họ đang
tiến về mộtlàng tên là Emmau, cách Giêrusalem khoảng
mười mộtcây số.
Trong khi đi
đường, họ trò chuyện sôi nổi với nhau.
Đối tượng của cuộc bàn tán
được mô tả tổng quát: “tất cả
những sự việc mới xảy ra” (c. 14; x. c. 18) và ta
hiểu nhờ những phần tường thuật
trước đó của tác giả Tin Mừng.
* Đồng hành và
đối thoại vớiĐức Giêsu (15-27)
Hai môn
đệ cùng đi với nhau, họ chia sẻ các tâm tình
với nhau, nhưng dường họ cũng không
đồng quan điểm với nhau; có chuyện gì đó
đã xảy ra khiến họ bị chao đảo và
họ vẫn chưa có thể đồng ý với nhau
về chuyện ấy hoặc tìm lại được
bình an. Đức Giêsu tiến đến cùng đi với
họ, rồi hỏi họ (cc. 15-19a). Họ kể
lại các sự cố đã xảy ra cho Đức Giêsu
theo quan điểm của họ (cc. 19b-24). Sau đó,
Đức Giêsu đã trình bày cho thấy là tất cả
những gì đã xảy ra đều phù hợp với Kinh
Thánh (cc. 25-27).
Sau khi
Đức Giêsu đã trở thành bạn đồng hành
của họ, dù họ vẫn không biết Người là
ai (cc. 15-16), hai bên đã trao đổi ba câu hỏi (cc.
17-19a), đưa đến chỗ họ kể chuyện
rõ ràng hơn. Tác giả nhắc lại rằng con
người đến gần hai môn đệ và bắt
đầu bước đi với họ đúng là
Đức Giêsu. Chính tác giả đã kể lại rằng
hành vi cuối cùng Đức Giêsu đã làm sau khi kêu lên
với Chúa Cha (23,46) là “tắt thở”. Bây giờ các
hành động mới của Người là: đến
gần, cùng đi, hỏi, cho thấy rằng Người
thật sự đang sống (x. 24,5) và quan tâm trước
tiên đến các môn đệ Người. Rõ ràng
Đức Giêsu đến như mộtngười lữ
khách bình thường, nhưng hai người môn đệ
không nhận ra Người. Kế đó, Lc đưa vào ba
câu hỏi (24,17.18.19). Câu thứ nhất là của
Đức Giêsu, Người tham gia vào cuộc thảo
luận của họ (c. 17).
Phản ứng
đầu tiên của họ là dừng lại. Cho tới
nay, chỉ toàn là chuyển động: đi đến (c.
13), cùng đi (c. 15), đi (c. 17). Việc dừng lại
dường như là do sự ngạc nhiên được
diễn tả trong câu hỏi tiếp sau (c. 18). Tác giả
cho biết “vẻ mặt họ buồn rầu”. Phản
ứng thứ hai là câu hỏi của mộtông tên là
Cơlêôpát (Kleopas là dạng tắt của Kleopatros). Ông này
cho biết là trong những ngày này, người ta chỉ có
thể nói về một chuyện duy nhất, nên
mộtngười lạ cũng phải biết; thế
mà người bạn đồng hành này lại không
biết! Tâm trí của Cơlêôpát còn đầy các biến
cố vừa xảy ra. Đức Giêsu trả lời bằng
một câu hỏi thứ hai, rất ngắn: “Poia?
(Những chuyện gì vậy?)”. Là nhân vật chính trong các
biến cố ấy, Người lại tỏ ra như
không biết. Người chứng tỏ sẵn sàng
lắng nghe và đã tạo cơ hội cho họ diễn
tả các tư tưởng và các mối bận tâm.
Họ bắt
đầu kể. Có thể nói phần tường
thuật của họ là một bản tổng hợp hành
trình của Đức Giêsu và của TM Lc. Phần
tường thuật có chủ đề “Chuyện ông Giêsu
Nadarét”, với mở đầu cô đọng nhưng càng
lúc càng rõ hơn. Hoạt động công khai của
Người (x. Lc 4–21) được tổng hợp trong
câu nhận định: “Người là một ngôn sứ
đầy uy thế trong việc làm cũng như lời
nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân” (c. 19; x. Lc 7,16). Dân
chúng đã nhận biết Người là mộtngôn sứ
vĩ đại. Về cuộc Thương Khó của
Người, hai ông nhắc đến các vị có trách
nhiệm: “các thượng tế và thủ lãnh của chúng
ta” và diễn tả biến cố này bằng hai từ,
“nộp” và “đóng đinh” (x. 24,7). Đến đây,
họ ngưng phần kể truyện mà đưa vào
mộtlời bình diễn tả nỗi thất vọng
của họ: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn
hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ
cứu chuộc Ít-ra-en” (c. 21). Họ đã nghĩ
đến mộtcuộc giải phóng dân tộc Do Thái mang
tính chính trị. Ở c. 47, Đức Giêsu sẽ cho
hiểu đây là cuộc giải phóng muôn dân khỏi
tội lỗi.
Và cứ
thế, họ đi đến giờ phút hiện tại:
các sự việc xảy ra đã sang ngày thứ ba rồi
(c. 21). Phải chăng họ đang gợi tới các
lời tiên báo về Phục Sinh vào ngày thứ ba (9,22; 18,33;
24,7.46) và muốn ám chỉ rằng các lời ấy đã
không thành sự? Phải chăng họ đang quy chiếu
về niềm tin dân gian Do Thái cho rằng linh hồn
vẫn ở gần thân xác cho đến ngày thứ ba,
rồi mới vĩnh viễn tách ra? Dù thế nào, nhận
xét ấy vẫn cho thấy nỗi thất vọng của
họ.
Họ lại
kể lại câu truyện và lần này kể rộng rãi
hơn: đoạn 24,22-23 tương ứng với 24,2-11,
còn đoạn 24,12 tương ứng với 24,24. Họ
kể chi tiết kinh nghiệm của các phụ nữ: các
bà này đến mộ từ sáng sớm, không thấy thi
hài Đức Giêsu đâu cả, nhưng lại nói là đã
thấy các thiên sứ hiện ra bảo rằng
Người vẫn sống (x. 24,5t). Quả thật, các
phụ nữ trở về, kể truyện, đã làm cho
cộng đoàn sửng sốt. Họ kể lại sứ
điệp của các phụ nữ (c. 24); rồi cũng
cho biết có “mấy người trong nhóm chúng tôi” đã
đến và thấy mộ trống, nghĩa là “thấy sự
việc y như các bà ấy nói”. Để kết luận,
họ nêu mộtnhận định cho đến nay
chưa nói ra: “còn chính Người thì họ không thấy”.
Trong khi họ nói ra điều này, họ nhìn Đức
Giêsu mà không nhận ra Người (x. c. 16). Rồi họ
sẽ là những người đầu tiên thấy
Người (c. 31). Trong cuộc hiện ra với các môn
đệ, chính Đức Giêsu cũng nhấn mạnh trên
việc thấy: ở 24,39, hai lần động từ
idete, “hãy nhìn xem”, được dùng (Có thể dịch
lại 24,39 như sau: “Hãy nhìn xem (idete) tay chân Thầy
đi, vì chính Thầy đây mà! Hãy rờ Thầy và nhìn xem
(idete) đi, vì ma đâu có thịt có xương như anh
em thấy (theôreite) Thầy có đây?”).
Kế đó,
tác giả ghi lại giọng văn trực tiếp
của Đức Giêsu, trước hết là một
tiếng than và một câu hỏi mang tính hùng biện (cc.
25-26), rồi cách thức Đức Giêsu giải thích Kinh
Thánh cho hai ông (c. 27). Trong khi các ông đã tóm các biến
cố, Đức Giêsu lại cho thấy liên hệ của
các biến cố ấy với Kinh Thánh, là nơi tỏ bày
ý muốn của Thiên Chúa.
Trong tiếng
than, Đức Giêsu đã đánh giá hai ông là “chẳng
hiểu gì và lòng trí thật là chậm tin”; đây là một lời
trách: trí tuệ và trái tim của các ông không sao tin
được tất cả những gì các ngôn sứ
đã nói. Trong câu hỏi mang tính hùng biện, Đức
Giêsu nhấn mạnh trên sự kiện là, thể theo
chương trình cứu độ của Thiên Chúa, nhất
thiết Đức Kitô phải (dei) đi qua cuộc
Thương Khó để vào vinh quang. Họ nói về
Đức Giêsu như là vị ngôn sứ lớn (c. 19),
Đức Giêsu lại nói về Đấng Kitô (cả
24,46): quả thật, trong cuộc xử cũng như khi
chế giễu Đức Giêsu, người ta tập trung
vào “Đấng Kitô” (22,67; 23,2; 23,35.39). Trong câu “chịu
khổ hình, rồi mới vào trong vinh quang của
Người”, cụm từ thứ hai đã thay thế
động từ “trỗi dậy” trong những đoạn
tương tự (x. 9,22;24,7.46): như thế, “trỗi
dậy”, hay “sống lại”, có nghĩa là “đi vào trong
vinh quang”, tức là đi vào sự hiện diện trực
tiếp của Thiên Chúa và thông phần vào vinh quang của
Người.
Sau đó,
Đức Giêsu rảo qua toàn bộ Cựu Ước
để giải thích cho hai môn đệ những
điều liên quan đến Người: trong tư cách
là “nhà chú giải” (diermêneuein, “giải thích, chú giải”),
Đức Giêsu cho hai ông thấy Kinh Thánh đã nói về
Người ở đâu và nói như thế nào. Câu 24,27 và
24,44 có cùng nội dung là “những gì liên quan đến
Đức Giêsu”, nhưng câu đầu thì Đức Giêsu
nói mà chưa được nhận ra, còn câu sau thì
Người nói sau khi đã được nhận
biết.
* Nhận ra Đức
Giêsu khi Người bẻ bánh(28-32)
Trong phần
đầu, hai môn đệ tha thiết thuyết phục
Đức Giêsu ở lại với họ (24,28-29). Trong
phần giữa, Đức Giêsu bẻ bánh, được
nhận biết và biến mất (24,30-31). Cuối cùng là
lời bình luận của hai môn đệ (24,32).
Ba người
đã đến gần mục tiêu hai môn đệ
nhắm tới (x. 24,13). Đức Giêsu làm bộ (“làm ra
vẻ, giả bộ”) muốn đi tiếp, nghĩa
là Người tiếp tục tỏ ra như là
người bạn đồng hành ngẫu nhiên. Họ tha
thiết xin (“ra sức, ép buộc”) Người ở
lại với họ và Người đã thuận theo
lời họ xin. Họ viện lý do là trời đã
xế chiều, nhưng sự khẩn khoản của
họ chứng tỏ họ hết sức quý trọng
người bạn đồng hành này. Những chi tiết
được lặp đi lặp lại trong cc. 29 và 30
cho thấy có nguyện vọng được ở
lại với nhau (“Mời ông ở lại với chúng
tôi”: 24,29; “Người vào và ở lại với họ”: 24,29; “Khi
đồng bàn với họ”: 24,30). Sự hiệp thông
giữa ba người trở thành mộtsự hiệp
thông trong bàn ăn (c. 30).
Trong bữa
ăn, Đức Giêsu đã xử sự như
người chủ tọa; Người đã làm bốn
hành động: Người cầm lấy bánh, dâng lời
chúc tụng, bẻ ra, trao cho. Ta không thể không thấy
Người xử sự y như trong Bữa Tối
cuối cùng (Lc 22,19-20. So sánh 22,19 // 24,30), tuy ở đấy
Đức Giêsu có nói mộtsố lời và cho phân phát
mộtchén rượu. Ta cũng thấy Người
xử sự như thế khi nhân bánh và cá ra nhiều
(9,12-17), chỉ có điều là ở đấy, sau khi
cầm lấy, Người lại ngườc mắt lên
trời (9,16). Các môn đệ đã nhận ra Người.
Khó có thể cho rằng các ông đã nhận ra Người
vì nhớ lại Bữa Tiệc cuối cùng, bởi vì các
ông không có mặt ở đấy. Hợp lý hơn, có
thể nói là vì các ông đã có mặt khi Đức Giêsu nhân
bánh ra nhiều hoặc đã thường thấy
Đức Giêsu làm cử chỉ này. Còn mộtcâu hỏi
khác: Phải chăng Đức Giêsu đã ban Mình
Người cho hai môn đệ Emmau? Người ta
thường trả lời là “không”, với các lý do: cử
chỉ Đức Giêsu làm là mở đầu thông
thường cho mộtbữa ăn Do Thái; Lc không ghi
lại mộtlời giải thích nào của Đức
Giêsu; thiếu việc trao mộtchén rượu; hai môn
đệ này không có mặt trong Bữa Tiệc cuối
cùng, vì chỉ dành cho các tông đồ (22,14). Tuy nhiên, ta cũng
không thể phủ nhận là có tương quan chặt
chẽ giữa 24,30 và 22,19. Thế rồi, hai môn đệ
ấy đã nói đến “việc bẻ bánh” của
Đức Giêsu (24,35). Cụm từ ấy chỉ xuất
hiện ở đây và ở Cv 2,42. Vậy không thể
chứng minh được là Đức Giêsu đã ban Mình
Người cho hai ông, nhưng 22,30.35 là những câu nhắc
các độc giả Lc nhớ tới Bữa Tối
cuối cùng và những buổi cử hành Thánh Thể
của họ. Và hẳn là khi nghe hai ông kể lại kinh
nghiệm vừa trải qua, Nhóm Mười Một cũng
nhớ lại Bữa Tối cuối cùng, trong đó
quả thật Đức Giêsu đã ban Mình Người cho
các ông (22,14.19). Như thế, Bữa Tối cuối cùng,
với tất cả ý nghĩa của nó, lại trở nên
sống động trong tâm khảm của cộng đoàn.
Kết quả
mà hành vi của Đức Giêsu tạo ra là tương quan
của hai môn đệ với Người được
đảo ngược: Trước kia, ở 24,16, mắt
của các ông còn bị ngăn cản, nay ở 24,31,
mắt các ông đã mở ra để nhận biết
Người, nhưng thật ra là Thiên Chúa mở mắt cho
các ông (thái bị động thay tên Thiên Chúa). Người
ta không thể nhìn thấy và nhận ra được
Đức Giêsu Phục Sinh bằng cặp mắt nhân
loại; nhận ra Đức Giêsu hiện diện và chân
tính của Người là mộtơn Thiên Chúa ban. Hai ông
đã hưởng nhờ ân huệ lớn lao từ cách
xử sự của Đức Giêsu. Các ông đã kết
thúc truyện kể ngược lại quá khứ với
mộtnhận định buồn rầu: “còn chính
Người thì họ không thấy” (24,24). Bây giờ họ
là những người đầu tiên của cộng
đoàn (nhưng x. 24,34) được ban cho ơn thấy
Đức Giêsu Phục Sinh và đang sống. Và khi đã
nhận biết Đức Giêsu đang sống, họ
mới có thể nhận ra là Đức Giêsu đã làm gì cho
họ, khi đi bên họ, giải thích Kinh Thánh và trao bánh
cho họ. Nhưng cũng ngay khi đó, Đức Giêsu
biến mất. Họ phải học biết rằng nay
đã chấm dứt hình thái hiện diện của Người
theo kiểu loài người và trần thế, mà họ
đã quen.
Trong lời bình
luận (24,32), hai ông đã nêu bật kinh nghiệm vừa trải
qua với Đức Giêsu, khi Người giải thích Sách
Thánh cho họ (24,25-27). Họ ghi nhận mộtsự thay
đổi trong tim, vì bây giờ con tim họ bắt
đầu nóng cháy lên.
* Trở lại
Giêrusalem (33-35)
Trong phần
kết luận này, tác giả kể lại chuyến quay
trở lại Giêrusalem của hai môn đệ (24,33),
tại đó họ được loan tin là Chúa đã
sống lại và đã hiện ra với Simôn (24,34).
Rồi các ông cũng nói đến kinh nghiệm trải qua
với Đức Giêsu Phục Sinh (24,35).
Vì giờ đã
muộn, hai môn đệ đã xin người bạn
đồng hành ở lại. Nay chính họ lại lên
đường quay trở lại Giêrusalem. Chuyến đi
được kể chi tiết (24,13-27), còn chuyến
về chỉ được nêu lên bằng sự kiện.
Hai môn đệ hết sức ao ước
được thông tin cho cộng đoàn, cho Nhóm
Mười Một và những người khác đang cùng
ở với các ông (x. 24,9), nhưng trước khi có
thể nói ra, các ông đã nhận được một
lời loan báo với hai thông tin: (1) “Chúa trỗi dậy
thật rồi” (x. 24,6) (2) “và đã hiện ra với ông Simôn”
(x. 1 Cr 15,5). Hành vi cuối cùng của Chúa (kyrios) mà Lc ghi
lại là ở 22,51: “Chúa quay lại nhìn ông Phêrô; ông Phêrô
sực nhớ lời Chúa đã nói với mình”. Sự thông
cảm đầy yêu thương của Chúa đối
với người tông đồ đầu tiên đã chịu
thua sự yếu đuối, đã bắt đầu
lại ngay sau khi ông chối Người (22,54-62) và
được hoàn tất với cuộc hiện ra
của Đức Chúa Phục Sinh (x. cả 5,8-l1; 22,31-32).
Phêrô là chứng nhân đầu tiên thông tin cho cộng
đoàn biết Đức Chúa đã sống lại và
đang sống. Hai môn đệ Emmau có thể xác nhận.
Hai ông có thể làm chứng về kinh nghiệm hai
điểm của mình: (a) về những gì đã xảy
ra cho họ trên đường (24,15-27); (b) về những
gì họ đã trải nghiệm tại bàn ăn (24,28-32).
Sau khi hai môn
đệ đã tường thuật, cộng đoàn có ba
chứng từ về cuộc sống lại và về
cuộc sống của Đức Giêsu.
+ Kết luận
Trong thời
gian hoạt động công khai, Đức Giêsu không sao
đưa các môn đệ đến chỗ hiểu Kinh
Thánh được (18,31-34). Chỉ trong tư cách là
Đấng Phục Sinh, Người mới mở
được ý nghĩa của Kinh Thánh ra cho họ (x.
24,32.45). Như thế, người ta chỉ có thể
hiểu Kinh Thánh khởi đi từ cuộc Phục Sinh
của Đức Giêsu. Chìa khóa giúp giải thích những gì
Kinh Thánh nói về hành trình của Đức Giêsu chính là
cuộc Phục Sinh của Người; Đấng
giải thích là Đức Giêsu Phục Sinh.
Trong khi
Đức Giêsu Phục Sinh giải thích Kinh Thánh, lòng các môn
đệ đã nóng cháy (24,32), nhưng chỉ sau khi
Người bẻ bánh, mắt họ mới mở ra
(24,31). Hai hành vi này không đưa vào những yếu tố
mới, nhưng nhắc lại những gì đã
được ban cho các môn đệ, và bây giờ lại
được ký thác cho họ theo cách mới. Từ nay,
Đức Giêsu không ở trong những hoàn cảnh sống
trần thế nữa. Do đó, họ phải đọc
Kinh Thánh từ quan điểm của Đức Giêsu
Phục Sinh. Khi đón nhận Mình và Máu Người, họ
phải nhận ra tình yêu vô biên của Đức Giêsu đối
với các môn đệ Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Qua những
chia sẻ cho Đức Giêsu, hai môn đệ nói về
“chúng tôi” bằng nhiều cách (“mấy phụ nữ trong
nhóm chúng tôi”, “mấy người trong nhóm chúng tôi”): họ
chứng tỏ là họ rất gắn bó với cộng
đoàn. Cộng đoàn xuất hiện ra trong bài Tin
Mừng này như là mộtđiểm quy chiếu vững
chắc và như là nơi quy tụ tất cả các
chứng từ và kinh nghiệm. Các thành viên của cộng
đoàn chưa được tiếp xúc trực tiếp
với Đức Chúa Phục Sinh, nhưng cộng đoàn
là nơi chuẩn bị cho họ nhận biết chính
Đấng Phục Sinh khi Người hiện ra giữa
họ (24,36-53).
2. Lộ trình
của hai môn đệ là “đi từ Giêrusalem về
Giêrusalem”, hay “Giêrusalem-Emmau: chuyến đi khứ hồi”.
Khi họ đi về Giêrusalem, họ đã rời bỏ
cộng đoàn, Đức Giêsu đi bên họ mà họ
không nhận ra Người. Khi họ quay trở lại
Giêrusalem, họ muốn được liên kết trở
lại với cộng đoàn, Đức Giêsu không còn
đi với họ nữa, nhưng trái tim của họ
chan hòa kinh nghiệm đã trải qua. Đã có
mộttiến trình đào sâu trong đó Đức Giêsu
nổi bật hoặc như là đối tượng
hoặc như là chủ thể. Kết quả là từng
cá nhân và cộng đoàn đạt được
mộtsự hiểu biết ngày càng sâu hơn về hành
trình của Đức Giêsu và mộtsự nhận biết
ngày càng chắc chắn hơn về sự Phục Sinh
của Người.
3. Đọc
truyện này, tôi cũng nhận ra được bố
cục của mộtcuộc cử hành Thánh Thể:
phần thứ nhất là Phụng vụ Lời Chúa:
lắng nghe Lời Chúa và tìm hiểu ý nghĩa (Đức
Giêsu giải thích Kinh Thánh), phần thứ hai là Phụng
vụ Thánh Thể (Đức Giêsu bẻ bánh). Chính Thánh
lễ cũng sẽ đưa người tín hữu
đến chỗ gắn bó với cộng đoàn hơn,
làm chứng cho nhau để củng cố niềm tin,
rồi lên đường tiếp tục chứng từ
ấy giữa muôn dân.
4. Đức
Giêsu đã làm mộtsố hành vi: đến gần, cùng
đi, hỏi, giải thích Kinh Thánh, bẻ bánh, mở
mắt cho hai môn đệ, biến mất. Ba hành vi
đầu có thể tóm lại bằng công thức “đi
tìm con chiên lạc”. Hai môn đệ giống như con chiên
trong bài dụ ngôn, đã bỏ đàn, và Đức Giêsu
như người mục tử đi tìm con chiên lạc
để đưa nó về đàn (x. 15,4-7). Trước
khi tỏ mình ra cho toàn thể cộng đoàn (24,36-53),
Đức Giêsu đã tìm lại được hai kẻ đã
bỏ đi. Như thế, Đức Giêsu Phục Sinh
cũng vẫn quan tâm đến những gì đã mất
(đối với Phêrô cũng vậy: 22,61; 24,34).
5. Kinh Thánh
như là Lời Thiên Chúa nói với dân Ngài là thẩm
quyền cao nhất cho họ và là điểm quy chiếu
mà mọi người đều biết. Khi cho thấy
Sách Thánh nói về Người và về những biến
cố chính của hành trình đời Người,
Đức Giêsu giúp ta thấy rằng các biến cố
ấy không phải là những biến cố xa lạ và phi
lý, nhưng thuộc về tương quan và lịch sử
của Thiên Chúa với dân Ngài. Khi đó ta mới
vượt qua được chướng kỳ là
Đức Kitô bị nộp và bị đóng đinh
(23,35-39; 24,20-21).
5. Lời
của hai môn đệ đúng là kêrygma: cho dù ở dạng
không mấy minh nhiên (như ontôs êgerthê ho kyrios, “Chúa sống
lại thật rồi”, Lc 24,34), kêrygma này có các yếu
tố căn bản: ba ngày, các phụ nữ tại
mộ, các thiên sứ, tin nói rằng Đức Giêsu vẫn
sống. Nhưng ở đây kêrygma được kể
ra như là mộtđiều không hiểu được,
mộtđiều hẳn là không thể nào đã xảy ra
và lại là mộtbi kịch cho tất cả những ai
đã đặt tin tưởng vào Người. Các lời
thì có đó, nhưng con tim thì không; phải nói là con tim
chỉ đầy phiền muộn, thất vọng,
khiến cho người nói cảm thấy cay đắng,
và do đó không thuyết phục được
người nghe. Cần phải nghe câu trả lời
của Đức Giêsu, mộtcâu trả lời diễn
tả kêrygma đích thật. Đức Giêsu hành
động như người loan báo Tin Mừng và như
vị tôn sư; Người sử dụng khả năng
nhà chú giải và huấn giáo viên để cung cấp lời
giải thích các môn đệ đang chờ.
|