Đức
Giêsu hiện ra
với các môn đệ
(Suy niệm của Lm FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ
cảnh
Dựa theo bố cục tổng quát của
Tin Mừng Gioan, đoạn văn này nằm trong
chương 20 là chương cuối cùng của phần B
(Sách về Giờ của Đức Giêsu), kèm theo lời
kết cho thấy mục tiêu của tác giả khi viết
Tin Mừng.
Trong tình trạng tranh tối tranh sáng lúc bình
minh, Maria Mácđala đi đến mộ Đức Giêsu
và thấy mộ đã được mở và trống
không. Cho tới nay, có hai sứ điệp của
Đức Giêsu Phục Sinh đã bao trùm ngày Phục Sinh
(20,2.17). Vào buổi chiều ngày dài này, Đấng Phục
Sinh đã đến gặp các môn đệ Người.
Người gặp họ khi họ đang ở trong phòng
cửa đóng kín: họ còn đang ở trong mộ
của nỗi sợ hãi, chứ chưa được
thông dự vào sự sống của Người.
Đức Giêsu đã đưa các môn đệ ra khỏi
tình trạng bế tắc do phản bội, do sợ hãi.
Và Người đã trao sứ mạng để các ông trở
thành sứ giả đi khắp nơi mà ban ơn tha
tội, ban sự bình an.
2.- Bố
cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu hiện ra với các môn
đệ không có Tôma (20,19-23):
a) Lời chào “bình an” thứ nhất với
việc chứng minh (cc. 19-20),
b) Lời chào “bình an” thứ hai với sứ
mạng (cc. 21-23);
2) Đức Giêsu hiện ra với các môn
đệ và Tôma (20,24-29):
a) Tôma không tin anh em (cc. 24-25),
b) Đức Giêsu và Tôma (cc. 26-31);
3) Kết luận Kitô học: Tóm tắt
mục tiêu sứ mạng của Đức Giêsu (20,30-31).
3.- Vài
điểm chú giải
- Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong
tuần (19): Cuộc hiện ra xảy ra tại
Giêrusalem vào ngày Chúa Nhật. Bản văn Lc 24,33-49 cho
biết Đức Giêsu hiện ra vào buổi chiều,
bởi vì vào lúc xế chiều, Người đã ngồi
ăn với hai môn đệ tại Emmau, rồi hai ông
đã trở lại Giêrusalem ngay trước khi Đức
Giêsu hiện ra với cả nhóm. Rất có thể tác
giả dùng từ ngữ “ngày ấy” mà chỉ ngày Chúa
Nhật ấy là có ý coi đây là ngày cánh chung, ngày mà
Đức Giêsu ban Thánh Thần để ở lại mãi
mãi với các môn đệ (xem thêm cc. 14,20; 16,23.26). Tác
giả dùng công thức “Ngày thứ nhất trong tuần” cho
cả hai lần hiện ra ở đây (lần sau đúng
một tuần sau) rất có thể là vì ông muốn
nhắc đến thói quen của các Kitô hữu cử hành
Thánh Thể vào “ngày thứ nhất trong tuần” (Cv 20,7; xem
thêm 1 Cr 16,2).
- các cửa đều đóng kín (19): Lý do nêu ra
trong bản văn là “vì các ông sợ người Do Thái”,
nhưng có lẽ tác giả cũng còn muốn cho thấy là
thân thể Đức Giêsu Phục Sinh có thể đi qua cửa
đóng kín. Đây cũng có thể là một ghi nhận
về hoàn cảnh hiện tại của các môn đệ.
- Bình an cho anh em (19): Trong tiếng Hípri, shâlôm (=
bình an, HL eirênê) là một lời chào thông thường.
Nhưng trong văn cảnh long trọng ở đây,
lời của Đức Giêsu có ý nghĩa khác, không phải
chỉ là “Cầu chúc anh em được bình an”, như
thể họ còn phải chờ đợi sự bình an
đến trong tương lai. Ở đây, lời
Đức Giêsu nói là một nhận định về
thực tại: chắc chắn họ đang có sự bình
an của Người.
- Như Chúa Cha đã sai Thầy (21): Trong các Tin
Mừng khác, cũng có lời sai đi này (x. Mt 28,19; Lc
24,47), nhưng ở đây, mẫu mực cho việc sai
đi là quan hệ của Con với Cha (một đề
tài thần học của Ga, xem 17,18).
- Người thổi hơi vào các ông... Anh
em hãy nhận lấy Thánh Thần (22): Hành động
này nhắc nhớ đến làn hơi sáng tạo của
Thiên Chúa trong St 2,7. Làn hơi của Đức Giêsu chính là
Thánh Thần. Trên thập giá, Người đã “trao
Thần Khí” (paredôken to pneuma; trước đây, vì không quan
tâm đến thần học của tác giả Ga,
người ta đã dịch là “trút hơi thở”) (19,30):
Người đã trao ban Thánh Thần cho những
người đứng dưới chân thập giá,
đặc biêt cho thân mẫu Người, tượng
trưng Hội Thánh hoặc Dân mới của Thiên Chúa, và
cho người môn đệ Người thương
mến, tượng trưng các Kitô hữu.
- Anh em tha tội cho ai...; anh em cầm giữ ai...
(23): Câu này có vọng lại Ds 22–24 bằng tiếng Hy
Lạp (Bản LXX), Truyện Bilơam: chẳng hạn so
sánh Ga 20,23 // Ds 22,6 LXX. Theo bản văn Hípri, vua Balác xác tín
rằng “kẻ nào bị ông nguyền rủa thì mắc
họa/bị nguyền rủa” (Ds 22,6 Hípri), nghĩa là
sẽ bị nguyền rủa qua lời nguyền Bilơam
tuyên bố. Ông không bận tâm với quyền năng
của Thiên Chúa Israel,
là Đấng có đồng ý thì Bilơam mới có thể
chúc phúc hoặc nguyền rủa (Ds 22,12; 23,8). Ngược
lại, trong bản văn Hy Lạp, lời của Balác
ở 22,6 có một ý nghĩa có thể giải thích theo hai
hướng: có thể hiểu “được phúc”
(eulogêntai) và “mắc họa/bị nguyền rủa”
(kekatêrantai) vừa theo nghĩa một hậu quả sẽ
xảy ra trong tương lai gần (bản văn Hípri:
dạng phân từ và vị hoàn), vừa theo nghĩa một
lời thú nhận không chủ ý rằng chỉ những ai
đã được Thiên Chúa chúc phúc hoặc bị Thiên
Chúa nguyền rủa thì Bilơam mới có thể chúc phúc
hoặc nguyền rủa. Đó chính là điều Thiên Chúa
đã nói với Bilơam: “Ngươi không được
đi với chúng! Không được nguyền rủa dân
đó, vì nó đã được chúc phúc (estin gar eulogêmenon)”.
Bilơam không thể nguyền rủa kẻ đang
sống trong tình trạng được chúc phúc, từ
đó chúng ta hiểu là kẻ nào ông nguyền rủa
được, kẻ ấy đã đang bị Thiên Chúa
nguyền rủa rồi. Balác đã nói như thế và ông
có lý, mà ông không biết.
Dạng hoàn thành apheôntai (“được tha”)
và kekratêntai (“bị cầm giữ”) ở Ga 20,23 có thể
được hiểu như thế.
- Chúng tôi đã được thấy Chúa
(heôrakamen ton kyrion, 25): Heôrakamen là thì hoàn tất của
động từ horaô, diễn tả việc “thấy” kèm
theo sự hiểu biết thật sự.
- Nếu tôi không thấy dấu đinh... (25):
Đây là lời Tôma khẳng định rằng ông không
tin, hoặc để ông tin, Đức Giêsu cũng
phải hiện ra với ông, như đã hiện ra
với các môn đệ kia. Đức Giêsu đã đáp
ứng yêu cầu của ông, Người đã mời ông
làm như ông nói lúc này, để có thể tin.
- Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin
(27): Dịch sát là “đừng cứ tiếp tục không
tin nữa, nhưng hãy bắt đầu tin đi”.
Đức Giêsu mời Tôma thay đổi thái độ.
- Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con
(28): Đây vừa là một tiếng kêu vừa là một
hô-cách dưới dạng chủ-cách (= “Lạy Chúa và
lạy Thiên Chúa của con!”) vừa là một lời tuyên
xưng đức tin (= “Ngài là Chúa và Thiên Chúa của con”)
độc đáo chưa ai làm. “Chúa của con” nhắm
đến Đức Giêsu của lịch sử, còn “Thiên
Chúa của con” là một lượng định mang tính
thần học về bản thân Người. Tuyên xưng
Đức Giêsu là “Đức Chúa” thì Maria Mácđala và các môn
đệ đều đã làm (20,18.25); nhưng tuyên xưng
vị “Chúa tể” này là “Thiên Chúa”, thì chỉ có Tôma mới làm
ở đây. Vì thế, cũng có thể hiểu câu này là
một phép thế đôi (hendiadys): “Chúa của con” cũng
là “Thiên Chúa của con”.
- là để anh em tin rằng (31): Bản
văn Hy Lạp ghi “để anh em tin” là hina pisteu[s]ête
(với con chữ sigma nằm trong ngoặc đơn),
tức là có thể đọc hina pisteusête hoặc hina
pisteuête. Cả hai cách đọc đều có thể
chấp nhận, nhưng đưa tới hai ý nghĩa
rất khác nhau:
(1) Cách
đọc thứ nhất, hina pisteusête (subjuntive aorist): Cách
đọc này có thể dịch ra như sau: “để anh
em có thể đi đến đức tin”. Trong
trường hợp này, mục tiêu của bài tường
thuật là truyền giáo. Những người nhận
bản văn hẳn là những người ở bên ngoài
cộng đoàn Kitô hữu.
(2) Cách
đọc thứ hai, hina pisteuête (subjuntive present): Cách
đọc này có thể dịch ra như sau: “để anh
em tiếp tục tin”. Trong trường hợp này, mục
tiêu của bài tường thuật chỉ là khuyến
thiện. Những người nhận bản văn
hẳn là những người thuộc về cộng
đoàn Kitô hữu.
Cho dù cách hợp lý hơn là cách đọc
thứ hai, ta cũng không thể chỉ vì có hoặc không có
một con chữ sigma (s) mà phân biệt để xác
định rằng mục đích của tác phẩm là
truyền giáo hay không. Ta còn phải khảo sát tất
cả các cách dùng liên từ hina, rồi khảo sát cấu
trúc văn chương tổng quát của tác phẩm. Dù
sao, khi nghiên cứu TM IV kỹ càng hơn, ta có thể
nghĩ rằng tác phẩm được ngỏ với
những người đã là Kitô hữu.
4.- Ý nghĩa
của bản văn
Trong cả hai lần Đức Giêsu hiện
ra, thời gian là “ngày thứ nhất trong tuần”, “ngày
của Chúa”, ngày Chúa Nhật. Người chào các môn
đệ với những lời như nhau, “Bình an cho anh
em!”. Đây là cuộc gặp gỡ hàng tuần của
cộng đoàn Kitô hữu. Đức Giêsu Phục Sinh
tỏ mình ra cho các môn đệ của Người.
* Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ
không có Tôma (19-23)
Các môn đệ đang sống trong căn
nhà cửa đóng then cài, “vì sợ người Do Thái” (c.
19). Điều này hiểu được sau khi Đức
Giêsu qua đời, nhưng có lẽ cũng phản ánh hoàn
cảnh của các môn đệ vào lúc Gioan viết Tin
Mừng. Nhiều lần, trong tác phẩm, ta thấy
những ai thuộc về nhóm Đức Giêsu đều
sợ bị đuổi ra khỏi hội đường
(x. 9,22). Các môn đệ lúc này không còn là mười hai
nữa, mà là mười một, rồi đọc thêm
nữa thì thấy chỉ còn có mười. Khi hiện ra,
điều đầu tiên Đức Giêsu làm là cho các môn
đệ thấy rằng các ông có Người đang
sống giữa các ông. Rồi Người nói: “Bình an
(eirênê) cho anh em!” (c. 19). Không chỉ nói về bình an,
Người còn cung cấp nền tảng chắc chắn
cho lời của Người: các vết thương (tay
[chân] và cạnh sườn). Vậy Người chính là
Đấng đã chết trên thập giá, nhưng
Người đã thắng cái chết. Không có sự
buồn phiền khi trông thấy các dấu vết của
cuộc Thương Khó. “Các môn đệ vui mừng vì
được thấy Chúa” (c. 20). Chỉ có niềm vui
bởi vì thời điểm tiêu cực cuộc cuộc
Thương Khó đã bị vượt qua. Các môn
đệ vui mừng bởi vì Đức Giêsu vui mừng
và chuyển thông niềm vui cho họ. Các ông cũng vui
mừng bởi vì Đức Giêsu đã hoàn tất sứ mạng
của Người.
Đức Giêsu lại ban cho sự bình an cho
các ông một lần nữa, rồi cho các ông
được thông phần vào chính sứ mạng, chính
sự sống và quyền của Người là tha tội.
Sau khoảnh khắc nhận biết, như trong
trường hợp Maria Mácđala, bây giờ đến một
loại tương quan khác. Ở c. 20, Đức Giêsu nói
tiếp: “Như (kathos) Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy
cũng sai anh em” (c. 21). Chỉ là một chuyển
động duy nhất: Trong tư cách Chúa Con, Người
làm chứng về Chúa Cha; trong tư cách môn đệ
Người, các môn đệ đi làm chứng về
Người và đưa người ta tới chỗ tin
vào Người, để rồi trong Người, các ông
được thông hiệp với Chúa Cha. Điểm này
rất quan trọng: tất cả những gì các môn
đệ làm, các ông không tự mình mà làm, nhưng làm theo
lệnh Đức Kitô.
Thế rồi để các ông chu toàn
được sứ mạng, Đức Giêsu ban cho các ông
Chúa Thánh Thần: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (c.
22). Chính Thánh Thần sẽ ban cho các môn đệ sức
mạnh để làm chứng “ad extra” (hướng ra bên
ngoài). Nhưng không chỉ có thế. Dấu chỉ cụ
thể của ân ban này là sự tha tội: “Anh em tha tội
cho ai, thì người ấy được tha; anh em
cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm
giữ”
(c. 23). Nối tiếp sứ mạng của Người,
các môn đệ sẽ tha tội và cầm buộc. Có dây
liên kết rõ ràng giữa ân ban Thánh Thần và quyền tha
tội để xây dựng nội bộ cộng đoàn.
Đều này nêu bật chiều kích “ad intra” (hướng
vào bên trong). Sứ mạng và sự tha tội đi chung
với nhau và là hoa trái của cùng một Thánh Thần do
Đức Giêsu ban tặng.
Ở trong một thế giới đang làm
cho các ông phải lo sợ, các ông đã có ở giữa mình
Đấng chiến thắng thế gian (x. 16,33) và
được đầy sự bình an và niềm vui
của Người. Đức Giêsu đã mở cửa ra
cho các ông và làm cho các ông có thể đi vào thế giới và
mang các ân huệ đến cho thế giới. Các môn
đệ không được khép mình lại trong nỗi
sợ hãi trước thế giới, nhưng phải
đầy tin tưởng đi vào thế giới.
* Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và
Tôma (24-29)
Khi Đức Giêsu đến, Tôma, một
trong Nhóm Mười Hai, không ở với các môn đệ.
Các môn đệ đã gặp Đức Giêsu Phục Sinh
hiện ra và được Người sai đi (cc. 19-23)
đảm bảo với Tôma rằng: “Chúng tôi đã
được thấy Chúa (heôrakamen ton kyrion)!” (c. 25).
Đây không phải chỉ là lời chia sẻ thông tin
về một sự kiện, mà còn là một lời tuyên
xưng đức tin: các ông (“chúng tôi” , tương tự
cộng đồng Hội Thánh) đã thấy Thầy, mà
các ông gọi là “Chúa” (danh xứng của Đức Giêsu sau
Phục Sinh), và các ông đã hiểu, đã tin. Nhưng Tôma
không tin anh em; ông nêu ra những điều kiện: “Nếu
tôi không thấy dấu đinh ở tay Người,
nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không
đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi
chẳng có tin” (c. 25). Tôma muốn làm cho rõ ra là Đấng
Phục Sinh chẳng phải là ai khác, mà chính là Đấng
đã chịu đau khổ và đã chết, là đây không
phải là một Giêsu khác, nhưng vẫn là Giêsu như
trước đây. Trách Tôma cứng tin, hay không hiểu gì
cả, là quá đáng! Ông muốn có một kinh nghiệm cá
nhân, ông muốn chính ông đạt tới đức tin.
Đức Giêsu đã chấp nhận các điều
kiện của ông. Người chấp nhận tỏ mình
ra theo cách có thể giúp Tôma nhận biết Người.
Đức Giêsu lại hiện ra với các
môn đệ, và cũng như lần trước,
Người ban bình an, sự vững vàng an toàn và sự che
chở. Rồi Người ngỏ lời với Tôma. Làm
sao Người biết những chuyện đã xảy ra?
Chúng ta không biết, vì bản văn không nói, nhưng
khả năng hiểu biết này của Đức Giêsu
chứng tỏ rằng kể từ nay, Người
hiện diện gần gũi với các môn đệ, cho
dù về thể lý, họ không nhìn thấy Người.
Người bảo Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy
nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh
sườn Thầy” (c. 27). Người cho Tôma thấy
những dấu chỉ của cái chết và tình yêu của
Người, và cũng chứng minh rằng Người là
nguồn mạch ơn cứu độ. Có người cho
rằng Tôma đã đưa tay chạm tới Đức
Giêsu. Hẳn là không cần như thế. Tôma đã tuyên
xưng niềm tin vào Đức Giêsu, một lời tuyên
xưng chưa hề có ai nói lên: “Lạy Chúa của con và là
Thiên Chúa của con” (c. 28). Ông đi theo một lộ trình
dài hơn mọi anh em, nhưng ông đã đến gần
Đức Giêsu hơn mọi anh em. Vì đối với cá
nhân ông, Đức Giêsu là Đức Chúa và Thiên Chúa.
Người là Đức Chúa, có quyền năng cứu
độ. Quan hệ với Người có tính vững
bền trọn vẹn mãi mãi vì Người là Thiên Chúa. Sau
đó, Đức Giêsu đã đưa ra một sự
đối lập giữa “thấy” (horaô) và “tin” (pisteuô)
(cc. 8b. 18. 20b. 25ab. 27. 29ab; x. 1,45; 4,50), và nhìn đến các
thế hệ tín hữu tương lai. Kể từ nay,
chứng từ về kinh nghiệm mà các môn đệ
đã có về Đức Giêsu Phục sinh phải là
động lực đưa moi người đến
đức tin, chứ không phải là kinh nghiệm về
một cuộc hiện ra trực tiếp của
Đấng Phục Sinh hay về một thánh tích.
* Kết luận Kitô học: Tóm tắt mục tiêu
sứ mạng của Đức Giêsu (30-31)
Cuối cùng, tác giả TM IV tóm tắt mục
tiêu của công trình của Đức Giêsu và cho thấy,
đối với những người không
được thấy, đâu là nẻo đường
đưa tới đức tin. Các tín hữu hôm nay
được mời gọi tin vào Đức Giêsu là
Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Đức tin nối kết
chúng ta với Người, và nhờ Người là Chúa Con,
chúng ta được đưa vào thông hiệp với Chúa
Cha. Đó là sự sống đời đời. Phải
chăng ở đây có nguy cơ chủ quan? Chính là xuyên qua
tính chủ quan mà ta đạt được tính khách quan.
Kinh nghiệm đức tin của một người riêng
lẻ phải được đối chiếu với
kinh nghiệm đức tin của cộng đoàn.
Đức tin của một người tự nó không
đủ. Chứng từ của cộng đoàn luôn
cần để bảo đảm cho đức tin
của từng người. Tuy nhiên, đức tin của
cộng đoàn không bao giờ thay thế đức tin
của từng người. Nếu TM IV có nhấn mạnh
là nhấn mạnh trên điểm này: chiều kích cá vị
của tương quan với Đức Giêsu Phục Sinh.
+ Kết
luận
Chúng ta có thể đọc bản văn trên
đây như một bức tranh bộ đôi: trong tất
cả các bài tường thuật này, ta ghi nhận
chiều kích cá vị trong tương quan với
Đức Giêsu. Ân ban căn bản của Đấng
Phục Sinh là sự bình an (20,19.21.26). Ngay trong các diễn
từ cáo biệt, Đức Giêsu đã hứa ban sự
bình an này cho các môn đệ. Người có tư cách
để ban sự bình an này vì Người về cùng Chúa
Cha (14,27) và vì Người thắng thế gian (16,33). Nay
Người đã thực sự thắng cái chết, là
dấu chỉ tối hậu về sức mạnh tiêu
diệt của thế gian, và đã thật sự lên cùng
Chúa Cha. Người đã đạt tới mục tiêu
của Người, Người lại đang sống
giữa các môn đệ trong tư cách là Đấng
chiến thắng. Chính Người là nền tảng
của sự bình an của các ông.
Đã nhận được các lời
chứng của các môn đệ, kinh nghiệm của Tôma,
các Kitô hữu hôm nay được mời gọi xác tín:
quả thật, Đức Giêsu là Đức Kitô, là Con Thiên
Chúa, và hãy tin vào Người. Niềm tin nối kết
họ với Người, và nhờ Người là Chúa Con,
các Kitô hữu được đưa vào hiệp thông
với Thiên Chúa Cha.
5.- Gợi ý suy
niệm
1. Các môn đệ của Đức Giêsu
cần xác tín rằng Đấng đang sống giữa
họ cũng chính là Đấng đã chết trên thập
giá; các ông cũng phải nhận biết rằng
Người vẫn mang những vết tích của cuộc
Thương Khó, dù đã sống lại; Người chính
là “Con Chiên đứng như thể đã bị giết”
(Kh 5,6). Các vết thương ấy là dấu chứng
tỏ tình yêu vô biên của Người, nhưng cũng là
dấu cho thấy sự tàn ác của loài người:
dấu của tình yêu vô biên, để họ luôn luôn tin
tưởng dấn thân; dấu của sự tàn ác con
người, để họ có cái nhìn thực tế,
biết rằng mình dấn thân vào trong thế giới nào.
2. Tôma đã tuyên xưng đức tin vào
Đức Giêsu theo cách chưa ai làm: “Lạy Chúa của con
và lạy Thiên Chúa của con”. Ông đã đi theo con
đường dài hơn con đường của các anh
em, nhưng đã đến gần Đức Giêsu hơn.
Đối với cá nhân ông, Đức Giêsu là Đức
Chúa và là Thiên Chúa. Ông tin, ông quy phục Đức Giêsu, ông
bày tỏ niềm tin vào Người. Maria Mácđala cũng
như các môn đệ đã tin vào Đức Giêsu như là
Đức Chúa. Tương quan của họ với
Người nay có giá trị vĩnh viễn và trọn
vẹn, bởi vì Đức Chúa ấy chính là Thiên Chúa.
Đức Giêsu chính là Thiên Chúa đang tìm đến gần
con người để ban cho con người sự
sống đời đời. Tôma nhận biết
Đức Giêsu như thế và gắn bó với
Người. Do đó, người nào chỉ nói đến
một Tôma thiếu lòng tin, là quên mất là ông đã
đạt đến niềm tin nào nhờ sự trợ
giúp của Đức Giêsu. Thật ra các tông đồ
đều thấy tin vào sự Phục Sinh là điều
không dễ chút nào!
3. Chúng ta thấy Đức Giêsu để
cho mình được nhận biết bởi bà Maria
Mácđala, bởi người môn đệ Người yêu
mến và bởi Tôma theo cách khác nhau. Đây là nét đặc
trưng của Tin Mừng Gioan. Các “dấu chỉ”
hoặc các “bằng chứng”, được thích ứng
với từng người. Đức Giêsu thuận theo
các đòi hỏi của mỗi người. Rồi
Người đưa mỗi người đến
với đức tin ở bên kia các dấu chỉ ấy.
Luôn luôn cần những dấu chỉ, nhưng cũng
phải luôn luôn vượt qua các dấu chỉ. Đàng
khác, kinh nghiệm đức tin của mỗi người
phải được đối chiếu với kinh
nghiệm đức tin của cộng đoàn.
4. Nghe lời “Phúc cho những người
không thấy mà tin”, chúng ta cảm thấy phấn khởi
vì chúng ta đâu có được thấy Đức Giêsu bằng
xương bằng thịt! Nhưng tại sao lại “có
phúc” có lẽ chúng ta nghĩ rằng bởi vì tin dù không
thấy thì khó hơn, nên có công trạng hơn. Thật ra,
“có phúc” là vì niềm tin này trung thực hơn, tinh trong
hơn. Người nào thấy thì đã có sự chắc
chắn, có chứng cớ không thể chối cãi về
một sự kiện, nhưng như thế thì không
phải là đức tin.
5. Hôm nay, ngày lễ “Lòng Thương xót Chúa”
mà Đức cố giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã thiết
lập ngày 30-4-2000, chúng ta nhớ đến hình ảnh
Đức Giêsu từ bi thương xót do thánh Faustina
Kowalska (1905-1938; Đức Gioan-Phaolô II phong thánh 30-4-2000 và
thiết lập lễ Lòng Thương Xót Chúa) để
lại: Người mặc y phục trắng, bàn tay
phải ban phép lành, bàn tay trái vén mép áo ngực, từ đó
thoát ra các tia sáng xám và đỏ, tượng trưng Bí tích
Thánh Thể và Bí tích Rửa Tội. Đức Giêsu là
hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy
cùng với thánh nữ Faustina Kowalska và Đức Gioan-Phaolô
II thưa với Người: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác
vào Người!” Chúng ta hãy trở thành hiện thân của
Lòng Chúa thương xót qua lối sống hợp nhất,
chia sẻ nâng đỡ nhau, sẵn sàng tha thứ cho nhau.
|