Thực tế hay huyền thoại? – JM. Lam Thy
Cho đến tận
ngày nay biến cố Phục Sinh vẫn còn là một huyền
thoại đối với con người chỉ thích
được “thực mục sở thị” (trông thấy
nhãn tiền). Không chỉ ở bên ngoài Kitô giáo, mà ngay trong
Giáo Hội cũng vẫn còn không ít Tôma-thời-đại
cứ đòi được “xỏ ngón tay vào lỗ
đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn” Đức Giêsu
mới chịu tin. Chuyện đó cũng dễ hiểu,
vì bản chất con người là thế. Nói về một
chuyện cách xa cả 20 thế kỷ, mà cứ đòi
được trực diện quan sát thì quả là không
tưởng! Đến ngay như người đương
thời, nhất là những kẻ ăn cùng mâm, ngồi
chung chỗ với Đức Kitô, được “thực
mục sở thị” mà khi biến cố xảy ra cũng
không thiếu những suy nghĩ trái chiều.
Xin thử đặt
mình vào thời điểm cách đây hơn 2000 năm, với
một nhãn quan của một trong những người-còn-hoài-nghi,
để nhìn vào hiện tượng “Giêsu Na-da-ret” qua biến
cố Phục Sinh. Trước hết, ngay ở chính quê
hương Na-da-ret, chàng thanh niên Giêsu là con ông thợ mộc
Giu-se khiêm tốn và bà Maria nội trợ hiền lành,
cũng không có tiếng tăm gì, chẳng mấy ai biết
đến, thậm chí sau một thời gian dài đi xa trở
về, chẳng được ai đón tiếp, đến
nỗi chàng phải thốt lên: “Ngôn sứ có bị rẻ
rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và
trong gia đình mình mà thôi” (Mt 13, 57), rồi còn nói: “Con chồn
có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có
chỗ tựa đầu.” (Mt 8, 20).
Những lời
phát biểu của chàng, nếu không là những câu chuyện
dụ ngôn khó hiểu, thì cũng chỉ là những lời
tréo cẳng ngỗng, nếu không muốn nói là nghịch
thường, phi lý. Chẳng hạn như: “Hãy để
người chết chôn người chết” (Lc 9, 60); “Thầy
đến không phải để đem bình an, nhưng
để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy
đến để gây chia rẽ giữa con trai với
cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ
chồng.” (Mt 10, 34-35); “Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy
yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược
đãi anh em”. (Mt 5, 44); ”Ai giữ lấy mạng sống
mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống
mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10,
39). Đó là chưa kể – nói theo đám kinh sư, luật
sĩ Pha-ri-sêu – Người còn nói “phạm thượng” nữa
(Lc 5, 21), dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa (Lc 22, 70; Ga 13,
34), rồi còn tự coi mình vừa là con lại vừa là
Chúa của vua Đa-vit (Lc 20, 41-44 ). Chưa hết, về
giao du, sinh hoạt, Người chỉ chuyên “ăn uống
với bọn thu thuế, và quân tội lỗi” (Mt 9, 10-11).
Nếu không
được ở liền bên Đức Giêsu hàng ngày, mà
chỉ được nghe thuật lại những lời
nói và hành động như nêu trên, chắc chắn sẽ
cho Người chỉ là một chàng trai tự phụ,
đại ngôn vậy thôi. Đám kinh sư và luật sĩ
Pha-ri-sêu chống đối Người cũng là vì thế.
Khoan thử nói đến những người ở bên
ngoài Giáo Hội, mà hãy nói thẳng vào những người
đã tin và đi theo Đức Giêsu như tìm đến một
cứu cánh cho cuộc đời. Họ đi theo Đức
Giêsu vì tin rằng mình sẽ trở nên những kẻ
“lưới người như lưới cá”. Rồi thì ngày
ngày được nghe lời dạy bảo, được
chứng kiến biết bao nhiêu phép lạ, mà vẫn còn bán
tín bán nghi (khi thì coi Thầy mình đúng là Con Thiên Chúa, là Thiên
Chúa thật; khi thì lại coi Thầy là ma, là bị quỷ
ám – Mc 3, 22 ; Lc 24, 37-39 ; Ga 8, 52 ; 10, 20…). Theo Thầy ròng rã 3
năm liền mà đến giờ phút quyết định,
thì bỏ mặc Thầy mướt mồ hôi máu khi cầu
nguyện trên núi Cây Dầu, còn mình thì thản nhiên ngủ
khì (Mt 26, 36-45). Đến khi Thầy bị bắt giải
đi thì chẳng thấy ai đi theo, ngoài một Phêrô lảng
vảng bên ngoài nhà Cai-pha, để rồi thì chối
phăng Thầy 3 lần liền trong một đêm chỉ
vì một đứa tớ gái vặn hỏi.
Trên đường
lên Núi Sọ, cũng chẳng thấy môn đệ nào
đi gần bên (để được như Si-mon – một
dân quê xa lạ – vác đỡ thập giá, hoặc như một
Vê-rô-ni-ca trao khăn cho Người lau mặt đầy
máu), nếu có đi theo cũng chỉ ở xa xa hoặc lẫn
trong đám người hiếu kỳ. Cho đến khi
Đức Giêsu chết trên thập giá và được mai
táng, thì hầu như chẳng còn một ai tin rằng Thầy
mình sẽ sống lại. Ngay đến sáng ngày thứ ba,
các phụ nữ – sau khi được chứng kiến
Đức Kitô Phục Sinh hiện ra – đến báo tin cho
các môn đệ (trong đó có Phêrô) mà các ngài vẫn còn
chưa tin hẳn và một lần nữa lại tưởng
Người là ma! (“Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn,
nên chẳng tin… Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu
đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!” Các ông
kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” – Lc 24,
11…37). Thậm chí cho đến lúc trắng đen rõ ràng rồi,
vậy mà vẫn còn một Tô-ma “Nếu tôi không thấy dấu
đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào
lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn
Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20, 25).
Tuy nhiên, chính cái
mâu thuẫn nội tại trong con người các môn đệ
lại là một bằng chứng sống động nhất
cho biến cố Phục Sinh. Thật thế, khi người
ta mang một tâm trạng hoài nghi thì khó lòng làm cho người
ta tin tưởng được. Chẳng thế mà thế
giới đã có cả một chủ thuyết hoài nghi hiện
diện (không tin vào bất cứ sự gì, nên sống hôm
nay không cần biết đến ngày mai). Nhưng nếu
đến một lúc nào đó, được “nghe”,
được “thấy tận mắt”" (“thực mục
sở thị”), được “chiêm ngưỡng”, tay
được “chạm đến” (như trường hợp
Gioan thánh sử – 1Ga 1, 1), tâm trạng hoài nghi thực sự
được gỡ bỏ; thì lúc đó niềm tin của
họ sẽ kiên định không gì lay chuyển nổi. Cho
nên có thể nói: Nếu không vì cái tâm trạng hoài nghi đã
từng dằn vặt tâm trí trước đó, thì khi
được gột rửa (được thanh tẩy
“trong Thánh Thần và lửa” – Mt 3, 11), niềm tin của các
môn đệ tiên khởi không thể kiên định
được đến độ dám đem cả sinh mạng
của mình ra để làm chứng cho mầu nhiệm Phục
Sinh. Nói cách khác, đức tin có vượt qua được
thử thách mới trở nên kiên định (Gc 1, 3), vàng
được thử lửa (1Pr 1, 7) mới thật sự
là vàng ròng.
Đến ngay
như Đức Giêsu Thiên Chúa nếu không trải qua cuộc
Khổ Nạn (với những vết đòn roi trên thân
xác, mão gai trên đầu, dấu đinh ở chân tay và nhất
là vết thương ở cạnh sườn bị
lưỡi đòng tội ác đâm thấu con tim) thì sự
Phục Sinh của Người cũng chẳng còn ý
nghĩa gì. Vì thế, vấn đề đặt ra với
người Kitô hữu ngày hôm nay khi bước vào Tuần
Thánh, chuẩn bị cử hành Tam Nhật Vượt Qua,
không chỉ là tưởng niệm cuộc khổ nạn của
Đức Giêsu Kitô và ăn mừng Lễ Phục Sinh
đánh dấu mầu nhiệm Vượt Qua vinh hiển của
Người, mà còn là làm sao vượt qua được
chính mình trên hành trình dương thế, ngõ hầu tiến
về được quê Trời vui hưởng hạnh
phúc đời đời. Một cách cụ thể, chúng ta
chỉ có thể đạt được ước vọng
đó khi chúng ta được “cùng chết với Đức
Kitô” (thử thách, thử lửa). Và chỉ có “cùng chết
với Đức Kitô” thì mới được “cùng sống
lại với Người”. Cụ thể hơn, cần
phải vượt qua được bản chất “sợ
chết” cố hữu của con người. Đức Kitô
đã chết vì tội lỗi loài người, vậy thì
tại sao loài người lại không sẵn sàng chết
vì tội lỗi của chính mình, để hy vọng
được thực sự “sống lại” trong Nước
Trời vinh quang?
Mỗi năm
chỉ có một Mùa Chay 40 đêm ngày hãm mình ép xác, ăn
năn sám hối. Mỗi Mùa Chay cũng lại chỉ có một
lần cử hành Tam Nhật Vượt Qua. Ngoài ý nghĩa
trọng đại của Tam Nhật Vượt Qua
như đã dẫn ở đầu bài viết, tôi cứ
muốn nghĩ thêm rằng tôi phải thực hành (không chỉ
là cử hành) cho kỳ được công cuộc vượt
qua được Mùa Chay của bản thân tôi, của cuộc
đời tôi. Và nhất là làm thế nào để mỗi
năm thêm một lần tôi ghi dấu được cuộc
vượt qua bằng một cái mốc thời gian trong cuộc
đời. Tôi phải sống làm sao cho đúng với ý
nghĩa “sống là chấp nhận vượt qua, vượt
qua mọi cám dỗ ngọt ngào, mọi đam mê thấp
kém, vượt qua mọi gian lao nguy hiểm, mọi thử
thách nghiệt ngã – vượt qua được chính mình”.
Cuộc sống của tôi không chỉ là mỗi năm một
lần cử hành Tam Nhật Vượt Qua, mà phải là thực
hành liên lỉ cuộc “bách-niên-vượt-qua”, cho tới
ngày tới được cùng đích của cuộc đời.
Ở đó, chính Người-đã-chết-cho-tôi, đã
Vượt-Qua-sự-chết-vì-tôi, sẽ dang rộng vòng
tay đón nhận tôi để tôi được cùng-sống-lại-với-Người.
Có thể ai
cũng đã quen với lối diễn tả sống
đức tin vào sự Phục Sinh là chết đi con
người cũ của mình để sống đời
sống mới trong Thánh Thần. Tuy nhiên, vấn đề
đặt ra là: Nói thì thật dễ, và chính vì tưởng
dễ như vậy nên mới vênh vang tự đắc;
nhưng làm thế nào để có thể “chết đi con
người cũ của mình” mới là thiên nan vạn nan.
Và vì thế, để thực hiện sống niềm tin
Phục Sinh cách thực tế và sống động, chỉ
có một bí quyết, đó là: “Lý do khiến anh em vênh vang chẳng
đẹp đẽ gì! Anh em không biết rằng chỉ một
chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy
lên sao? Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở
thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy,
Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ
Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng
lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy
bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng
đại lễ.” (1Cr 5, 6-8).
Vâng, người
Kitô hữu “ăn mừng đại lễ Phục Sinh”
cũng có nghĩa là sống mầu nhiệm Phục Sinh, sống
với “lòng tinh tuyền và chân thật”. Cuộc đời
Kitô hữu là một tiến trình “loại bỏ men cũ
để trở thành bột mới”. Cuộc loại bỏ
và trở thành ấy diễn ra trong mọi quyết tâm và nỗ
lực là “trở nên đồng hình đồng dạng với
Chúa Kitô” (“Vấn đề là được biết chính
Đức Kitô, nhất là biết Người quyền
năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được
thông phần những đau khổ của Người, nhờ
nên đồng hình đồng dạng với Người
trong cái chết của Người, với hy vọng có
ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.”
– Pl 3, 10-11).
Tóm lại,
để sống trọn hảo Mùa Chay thánh 2014, người
Kitô hữu hãy mau mắn đáp lại mong ước của
vị Cha Chung (ĐTC Phan-xi-cô): “Anh chị em thân mến,
ước gì Mùa chay này thấy được toàn thể
Giáo Hội sẵn sàng và mau mắn làm chứng cho những
người đang sống trong tình trạng lầm than vật
chất, luân lý và tinh thần: làm chứng về sứ
điệp Tin Mừng, được tóm tắt trong việc
loan báo tình thương của Chúa Cha từ bi, sẵn sàng
ôm lấy mỗi người trong Chúa Kitô. Chúng ta có thể
thi hành điều ấy theo mức độ chúng ta
được trở nên đồng hình đồng dạng
với Chúa Kitô, Đấng đã trở nên nghèo và làm cho
chúng ta được giàu sang bằng cái nghèo của Ngài.
Mùa Chay là mùa thích hợp để cởi bỏ, làm cho chúng
ta tự hỏi đâu là điều chúng ta có thể chịu
thiếu để giúp đỡ và làm cho người khác
trở nên phong phú nhờ cái nghèo của chúng ta.”
Quả thật
“Vì được dìm vào trong cái chết của Người,
chúng ta đã cùng được mai táng với Người.
Bởi thế, cũng như Người đã được
sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng
vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được
sống một đời sống mới. Thật vậy,
vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ
được chết như Người đã chết,
thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ
được sống lại như Người đã sống
lại.” (Rm 6, 4-5). Và chỉ đến khi đó, tôi mới
thật sự vui mừng mà hoà chung tiếng hoan ca với mọi
người: Chúa đã sống lại hiển vinh! Alleluia!
Alleluia! Ôi, lạy Chúa! Con đã tự ru mình vào những cám
dỗ ngọt ngào của ba thù, đã tự kết án mình,
đã chết vì chính tội lỗi của con. Xin cho con
vượt qua được mọi nỗi thống khổ
trần ai, vượt qua được chính mình, để
được cùng sống lại với Ngài trong ngày sau hết.
Amen. Alleluia! Alleluia!
|