MẦU
NHIỆM THƯƠNG XÓT
(Chúa
Nhật II Phục Sinh – kính Lòng Chúa
Thương Xót, năm A)
Mầu
nhiệm là điều phàm nhân không
hiểu nổi. Chữ “mầu nhiệm”
của tiếng Việt được sử dụng
trong các sách thần học và giáo
lý để dịch chữ mysterium (tiếng
La-tinh), mystery (tiếng Anh), hoặc mystère (tiếng
Pháp). Chữ “mầu nhiệm” thường
được dùng trong lĩnh vực đức
tin, theo nghĩa là những chân lý vượt
quá tầm hiểu biết của trí tuệ
con người, tức là con người không
thể hiểu thấu. Chúng ta nhận biết
bằng đức tin dựa trên lời chân
thật của Thiên Chúa, do chính Thiên
Chúa mặc khải. Có nhiều mầu
nhiệm, Lòng Thương Xót của Thiên
Chúa là một mầu nhiệm.
Thật
kỳ diệu, ngay trên đỉnh Can-vê,
Thập Giá đã nảy lộc, đơm
hoa và kết trái. Chúa Giêsu đã
chiến thắng tử thần, Ngài đã
phục sinh vinh hiển, ngôi mộ trống là
chứng có hùng hồn đầy tính
thuyết phục, mặc dù người ta đã
hèn nhát hối lộ nhau để bóp
méo sự thật.
Trước
đây, Chúa Nhật II Phục Sinh là
Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, ngày
nay gọi là Đại lễ kính Lòng
Chúa Thương Xót (LCTX), được
Thánh GH Gioan Phaolô II chính thức thiết
lập vào ngày 30-4-2000, ngày tuyên
thánh Nữ tu Faustina Kowalska (1905-1938), vị tông
đồ tiên khởi của LCTX.
Tuy
là hai cách gọi nhưng vẫn chỉ là
một. Tương tự, Tình Yêu Chúa,
Thánh Tâm Chúa, và LCTX tuy ba mà
một. Chính Chúa Giêsu đã mặc
khải ước muốn của Ngài cho Thánh
nữ Faustina: “Ta
muốn một tấm hình được làm
phép trọng thể vào Chúa Nhật
sau Đại lễ Phục Sinh, và Ta muốn
tấm hình đó được tôn
kính công khai để mỗi linh hồn
đều biết đến tấm hình
đó” (Nhật
Ký, số 341).
Chính
Chúa Giêsu đã hứa: “Ta
muốn ban ơn tha thứ hoàn toàn cho các
linh hồn nào xưng tội và rước
lễ trong ngày lễ kính Lòng Thương
Xót của Ta”
(Nhật Ký, số 1109). Ơn tha thứ hoàn
toàn đó là Ơn Toàn Xá mà
Người Trộm Lành Dismas đã được
lãnh nhận ngay trước khi Chúa Giêsu
trút hơi thở cuối cùng, lúc 3
giờ chiều ngày Thứ Sáu Tuần
Thánh năm xưa trên đồi Golgotha.
Cũng từ Giờ Cứu Độ đó,
Nguồn Mạch Lòng Thương Xót của
Thiên Chúa đã tuôn trào chan
hòa mãi đến muôn đời cho
mọi người, chỉ với một điều
kiện đơn giản là thật lòng
SÁM HỐI và TIN TƯỞNG vào LCTX.
Đức
tin vô cùng quan trọng. Thật thế,
Thánh Phaolô xác định: “Người
ta được nên công chính vì
tin, chứ không phải vì làm những
gì Luật dạy” (Rm
3:28). Ngoài Tám Mối Phúc, còn có
Mối Phúc đặc biệt liên quan đức
tin, và có thể coi như “mối phúc
thứ chín”, do chính Chúa Giêsu
xác nhận: “Phúc
thay những người không thấy mà
tin!” (Ga
20:29). Và chắc chắn rằng “bất
kỳ ai tín thác vào Ngài,
Đức-Kitô-làm-người-chịu-chết-và-phục-sinh,
sẽ không phải thất vọng” (x. Rm
10:11; 1 Pr 2:16).
Đề
cập vấn đề đức tin trong ngày
lễ kính LCTX, xin được “mở
ngoặc” nhỏ: Thấy có những người
hằng ngày tới nhà thờ lần Chuỗi
LCTX với cộng đoàn, nhìn bề
ngoài thấy là người đạo đức
lắm, thế nhưng họ vẫn tin vào tử
vi. Họ lý luận rằng đó là
khoa học, không có tội (sic!).
Tử
vi (*) cũng gọi là “tử vi đẩu
số”, một hình thức bói toán
để biết trước vận mệnh con
người được xây dựng trên
cơ sở triết lý Kinh Dịch với các
thuyết âm dương, ngũ hành, can và
chi,… Người ta lập lá số tử
vi với Thiên bàn, Địa bàn và
các Cung sao – gọi là “chấm tử
vi”. Căn cứ vào giờ, ngày,
tháng, năm sinh theo âm lịch và giới
tính để lý giải những diễn
biến xảy ra trong đời người. Vậy
không phải là dị đoan ư? Miệng
leo lẻo nói tin Chúa mà lòng có
tin chưa? Tương lai chúng ta phó thác
trong tay Chúa hay tử vi? Như vậy không
phải là “tin bằng môi miệng”
ư?
Ngoài
ra, cũng thấy có những người vẫn
còn “chạy đua” theo những “sự
lạ” trong khi lại không để ý
các phép lạ hằng ngày: Thánh
Thể và không khí. Phải chăng như
vậy cũng chỉ là “lẻo mép”,
chúng ta đến với LCTX mà chưa
thực sự vì yêu mến? Thiết nghĩ,
cách thể hiện đức tin như vậy
cũng nên “xét lại” lắm!
Người
Việt có câu: “Tốt
gỗ hơn tốt nước sơn”.
Đúng vậy, cái “phẩm” quan
trọng hơn cái “lượng”. Rễ
càng sâu thì cây càng vững,
loại cây nào có rễ ăn nổi
thì dễ đổ khi gặp mưa gió.
Thực tế minh nhiên. Vấn đề đức
tin cũng vậy, nếu không có chiều
sâu thì chỉ là đức tin trống
rỗng, hào nhoáng bề ngoài mà
thôi!
Thánh
nữ Faustina nói về việc sống đức
tin: “Tôi
đã thấy rõ thánh ý Chúa
đang và sẽ được thực hiện
đến từng chi tiết cuối cùng.
Những nỗ lực điên cuồng của
kẻ thù không thể cản trở chi
tiết nhỏ nhặt nhất trong những điều
Chúa đã tiền định. Chẳng hề
gì nếu có những lần công cuộc
dường như hoàn toàn bị tiêu
tan; vì chính khi ấy, công cuộc lại
càng được củng cố hơn nữa”
(Nhật Ký, số 1659).
Tác
giả Thánh Vịnh luôn vững tin: “Dẫu
cho hồn xác suy tàn, thì nơi ẩn
náu, kỷ phần lòng con, muôn đời
là Chúa cao tôn”
(Tv 73:26). Chỉ người nào có đức
tin son sắt như vậy mới có thể
nói như Thánh Phaolô: “Không
có gì tách được chúng ta
ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa
thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu,
Chúa chúng ta”
(Rm 8:39). Tin vào Chúa là tin vào Tình
Yêu của Ngài, là tín thác vào
Lòng Thương Xót của Ngài.
Trình
thuật Cv 2:42-47 cho biết: “Ngày
xưa, các tín hữu chuyên cần nghe
các Tông Đồ giảng dạy, luôn
luôn hiệp thông với nhau, siêng năng
tham dự lễ bẻ bánh, và cầu
nguyện không ngừng. Mọi người đều
kinh sợ, vì các Tông Đồ làm
nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất
cả các tín hữu hợp nhất với
nhau, và để mọi sự làm của
chung. Họ đem bán đất đai của
cải, lấy tiền chia cho mỗi người
tuỳ theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất
trí, ngày ngày chuyên cần đến
Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh
tại tư gia, họ dùng bữa với lòng
đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên
Chúa, và được toàn dân
thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn
mỗi ngày có thêm những người
được cứu độ”.
Một
đoạn văn ngắn gọn nhưng cho thấy
rõ nét của một xã hội đại
đồng, một cộng đoàn lý
tưởng, luôn đầy ắp tình yêu
thương, tình liên đới và sự
hiệp nhất. Sống trong tình yêu thương
như vậy là sống trong lòng thương
xót, ai cũng thể hiện lòng thương
xót với nhau ở mọi góc độ
và mọi cấp độ, không chi li,
không so đo, tính toán, không phe
cánh, không vụ lợi, biết quên
mình vì người khác,... Những ai
sống đúng lòng thương xót
như vậy thì chắc chắn được
Thiên Chúa cứu độ.
Từ
muôn thuở tới muôn đời, trước
sau như một, Thiên Chúa mãi là
Đấng giàu lòng thương xót:
“Muôn
ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương”
(Tv 118:2-3). Thật vậy, Thiên Chúa muốn
mọi người đều được hưởng
Ơn Cứu Độ. Chúng ta có nhiệm
vụ phải loan báo LCTX, chứng tỏ cho
mọi người biết Ngài, và tuyên
xưng: “Chúa
là sức mạnh tôi, là Đấng
tôi ca ngợi, chính Người cứu độ
tôi”
(Tv 118:14).
Chúa
Giêsu là “tảng đá thợ xây
nhà loại bỏ” nhưng lại “trở
nên đá tảng góc tường”
(Tv 118:22). Thật là kỳ công vô song
của Thiên Chúa! Vì thế, chúng
ta hãy nhắc nhở nhau và đồng
thanh: “Đây
là ngày Chúa đã làm ra, nào
ta hãy vui mừng hoan hỷ!”
(Tv 118:24).
Trong
tâm tình hân hoan đó, Thánh
Phêrô vui mừng nói: “Chúc
tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng
hải hà, Người cho chúng ta được
tái sinh để nhận lãnh niềm hy
vọng sống động, nhờ Đức Giêsu
Kitô đã từ cõi chết sống
lại, để được hưởng gia
tài không thể hư hoại, không thể
vẩn đục và tàn phai. Gia tài
này dành ở trên trời cho anh em, là
những người, nhờ lòng tin, được
Thiên Chúa quyền năng gìn giữ,
hầu được hưởng ơn cứu độ
Người đã dành sẵn, và sẽ
bày tỏ ra trong thời sau hết”
(1 Pr 1:3-5). Đó là lời chứng của
người đã trải nghiệm các
cung bậc sống, thực sự là lời
chứng đáng tin vì hoàn toàn
chính xác.
Để
động viên chúng ta, Thánh Phêrô
nhắn nhủ thêm: “Trong
thời ấy, anh em sẽ được hân
hoan vui mừng, mặc dầu còn phải ưu
phiền ít lâu giữa trăm chiều thử
thách. Những thử thách đó nhằm
tinh luyện đức tin của anh em là thứ
quý hơn vàng gấp bội, vàng là
của phù vân mà còn phải chịu
thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giêsu
Kitô tỏ hiện, đức tin đã
được tinh luyện đó sẽ trở
thành lời khen ngợi, và đem lại
vinh quang, danh dự”
(1 Pr 1:6-7). Lửa thử vàng, gian nan thử
sức. Qua gian khổ mà vẫn trung tín
thì mới chứng tỏ đức tin sắt
son, không nao núng trước mọi cám
dỗ. “Không thấy mà tin” là
một Mối Phúc, đúng là như
vậy. Tuy nhiên, trong khi miệng nói tín
thác vào LCTX mà lại tin vào tử
vi thì hoàn toàn bất xứng. Việc
lặp đi lặp lại “lời tín
thác” cũng chỉ như niệm thần
chú, đọc như con vẹt, chứ trong
lòng chưa thực sự tin tưởng. Vô
ích!
Quả
đúng như vậy, bởi vì Chúa
Giêsu đã nói chắc chắn và
rõ ràng: “Không
phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy
Chúa! lạy Chúa!’ là được
vào Nước Trời cả đâu! Nhưng
chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy
là Đấng ngự trên trời, mới
được vào mà thôi”
(Mt 7:21). Ngôn hành phải song song, không
thể nói một đàng làm một
nẻo.
Về
Mối Phúc “không thấy mà tin”,
Thánh Phêrô cũng giải thích rạch
ròi: “Tuy
không thấy Người, anh em vẫn yêu
mến, tuy chưa được giáp mặt
mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy,
anh em được chan chứa một niềm vui
khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã
nhận được thành quả của đức
tin, là ơn cứu độ con người”
(1 Pr 1:8-9). Đức tin quan trọng, nhưng đức
tin có những mức độ khác nhau ở
mỗi người, đức tin càng sâu
rộng càng có giá trị, và tất
nhiên cũng cần trau giồi hằng ngày
– thậm chí là từng giây phút
trong cuộc sống.
Tin
Mừng hôm nay là trình thuật Ga
20:19-31, một đoạn Tin Mừng rất quen
thuộc nói về việc cứng lòng tin
của tông đồ Tôma. Trong một bộ
phim hoặc cuốn truyện, nhân vật phản
diện thường không được người
ta có cảm tình. Thế nhưng chúng
ta quên rằng, nhân vật phản diện
đó lại làm “nền” để
nhân vật chính diện được nổi
bật. Có lẽ Thánh Tôma cũng là
“đích nhắm” của chúng ta
mỗi khi nói tới đức tin, nhất là
trong Mùa Phục Sinh.
Rất
có thể tông đồ Tôma là
người thực tế nên ông cần
điều cụ thể, rõ ràng. Chúng
ta cứ chê ông cứng lòng, nhưng
chúng ta cũng vẫn cứng lòng đó
thôi, bằng chứng là chúng ta chưa
tin vào Kinh Thánh và các chứng cớ
của Giáo Hội, thế nên đức
tin của chúng ta vẫn dễ bị “lung
lay” mỗi khi gặp gian khổ, và rồi
chúng ta vẫn “chạy đua” về
các “sự lạ” ở chỗ này
hoặc chỗ nọ vì “máu” tò
mò hoặc hiếu kỳ hơn là “máu”
đức tin. Như vậy không gọi là
cứng lòng tin thì gọi là gì?
Kinh
Thánh cho biết rằng vào chiều ngày
thứ nhất trong tuần, ngày Chúa Giêsu
phục sinh, các môn đệ ở trong
phòng đóng kín cửa vì họ
sợ người Do-thái, trong “khoảng
sợ hãi” đó có thể có
phần họ “ớn” vì biết đâu
họ cũng bị lôi cổ ra hành hình
nếu bị phát hiện. Nếu vậy thì
cũng lạnh xương sống lắm chứ!
Nhưng bất ngờ Đức Giêsu đến,
đứng giữa các ông và nói:
“Bình
an cho anh em!”.
Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và
cạnh sườn. Các môn đệ vui
mừng vì được gặp lại Thầy
thật rồi. Rồi Ngài lại nói với
các ông: “Bình
an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy
thì Thầy cũng sai anh em”.
Nói xong, Ngài thổi hơi vào các
ông và bảo: “Anh
em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em
tha tội cho ai thì người ấy được
tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy
bị cầm giữ”.
Nhưng
chiều hôm đó không có mặt
tông đồ Tôma, cũng gọi là
Đi-đy-mô. Sau đó, các môn đệ
khác nói với ông về thấy Chúa
nhãn tiền, nhưng ông Tôma nói
chắc nịch: “Nếu
tôi không thấy dấu đinh ở tay
Người, nếu tôi không xỏ ngón
tay vào lỗ đinh và không đặt
bàn tay vào cạnh sườn Người,
tôi chẳng có tin”.
Ái chà, coi bộ “căng” dữ
nghen!
Rồi
tám ngày sau, các tông đồ lại
quy tụ, lần này có cả ông Tôma.
Các cửa cũng vẫn đóng kín
mít. Thế mà thật lạ, Đức
Giêsu hiện đến, đứng giữa và
chúc bình an cho họ. Rồi Ngài bảo
ông Tôma: “Đặt
ngón tay vào đây, và hãy nhìn
xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào
cạnh sườn Thầy. Đừng cứng
lòng nữa, nhưng hãy tin”.
Ngại hết sức! Biết rồi còn nói,
Thầy kỳ ghê đi! Ngại thì ngại
lắm, ông Tôma chỉ còn biết vội
sụp lạy và thưa: “Lạy
Chúa của con, lạy Thiên Chúa của
con!”.
Đó là một dạng thú tội.
Ngài ôn tồn: “Vì
đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc
thay những người không thấy mà
tin!”
(Ga 20:29).
Sau
khi sống lại, hai lần đầu tiên
Chúa Giêsu hiện ra đều vào “ngày
thứ nhất trong tuần”, khi các tông
đồ đang tụ họp nhau. Điều đó
cho thấy việc thờ phượng Chúa vào
ngày Chúa Nhật là việc quan trọng
trong đời sống tâm linh của các
Kitô hữu, đó cũng là ngày
nhận phúc lành bình an của Chúa
Giêsu Phục Sinh.
Thánh
sử Gioan cho biết: Đức Giêsu đã
làm nhiều dấu lạ khác nữa trước
mặt các môn đệ; nhưng những
dấu lạ đó không được
ghi chép lại. Còn những điều đã
được chép ở đây là để
anh em TIN rằng Đức Giêsu là Đấng
Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh
em tin mà được sự sống nhờ
danh Ngài. Về đức tin, Thánh Gia-cô-bê
cũng có cách nói tương tự:
“Phúc
thay kẻ đặt niềm tin vào Đức
Chúa và có Ngài làm chỗ
nương thân”
(Gr 17:7).
Như
chúng ta đã biết, Chúa Giêsu là
Thiên Chúa tình yêu, là Đấng
giàu lòng thương xót, và Ngài
đã yêu thương chúng ta đến
cùng (Ga 13:1). Chính vết thương nơi
Thánh Tâm Ngài là ấn tín của
tình yêu vô biên và vô điều
kiện, là nơi tuôn trào Máu và
Nước trường sinh, là Nguồn Mạch
Lòng Thương Xót, chính Máu và
Nước đó đã làm cho viên
đội trưởng Longinô sáng mắt
(2), và rồi ông này đã phải
thú nhận ngay tại chân Thập Giá
vào chiều Thứ Sáu Tuần Thánh:
“Quả
thật ông này là Con Thiên Chúa,
là người công chính!”
(Mt 27:59; Mc 15:39; Lc 23:47).
TIN
để ĐƯỢC Thiên Chúa thương
xót là hệ lụy liên kết chặt
chẽ, không thể tách rời. Chúa
Giêsu được Chúa Cha trao trọn
quyền, thế nên không ai có thể
đến với Chúa Cha nếu không qua
Đức Kitô: “Chính
Thầy là con đường, là sự
thật và là sự sống. Không ai
đến được với Chúa Cha mà
không qua Thầy”
(Ga 14:6).
Trong
niềm vui tưng bừng của Tin Mừng Phục
Sinh, chúng ta cùng nhớ lại lời Thầy
Giêsu đã nói trước khi Ngài
chịu chết và sống lại: “Anh
em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên
Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha
Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không,
Thầy đã nói với anh em rồi, vì
Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy
đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại
đến và đem anh em về với Thầy,
để Thầy ở đâu, anh em cũng ở
đó”
(Ga 14:1-3). Lời này là lực đẩy
mạnh mẽ để chúng ta tiếp tục
cuộc lữ hành trần gian cho đến
khi hoàn tất cuộc đời, cũng là
lúc chúng ta được gặp và
sống với Đức Kitô Phục Sinh mãi
mãi.
Lạy
Thiên Chúa hằng hữu và giàu
lòng thương xót, xin giúp con luôn
chân thành tín thác vào Con Chúa,
Đấng đã chịu tử nạn vì
thương xót nhân loại và đã
phục sinh để những ai tin Ngài cũng
sẽ được sống dồi dào. Xin
Ngài thương xót toàn thế giới,
và xin giúp con thể hiện lòng thương
xót đúng với Tôn Ý Ngài.
Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô
Phục Sinh, Đấng đã yêu thương
nhân loại đến cùng và là
Đấng cứu độ. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
---------------
(1)
Tử vi là tên một loài hoa tím
– TỬ là tím, VI là huyền diệu.
Khoa Chiêm tinh Tướng mệnh Đông
phương dùng loại hoa tím này để
chiêm bốc.
(2)
Đội trưởng Longinus (cổ ngữ Hy
Lạp: Λογγῖνος,
Longĩnos) kém thị lực, khi ông cầm
ngọn giáo đâm vào Trái Tim Chúa
Giêsu, Máu và Nước chảy theo
ngọn giáo xuống tay, ông lấy tay dụi
mắt và được sáng mắt, ông
đã thật lòng tin Đức Kitô
là Con Thiên Chúa và ông đã
nên thánh, Giáo hội có đặt
tượng Thánh Longinô ở Đền
Thờ Thánh Phêrô (Rôma).
|