CHÂN
DUNG “SƯ TỬ” MÁC-CÔ
Thánh
sử Mác-cô (La ngữ: Mārcus; Hy ngữ:
Μᾶρκος; tiếng Coptic: Μαρκοϲ;
tiếng Do Thái: מרקוס)
là một trong 72 môn đệ, người
thành lập giáo phận Alexandria, một
trongba giáo phận chính của Kitô giáo
thời sơ khai. Lễ kính Thánh Mác-cô
vào ngày 25 tháng Tư hàng năm,
biểu tượng của ngài là Sư
Tử có cánh.
Theo
William Lane (1974), một “truyền thống nguyên
vẹn” đã đồng hóa Thánh
sử Mác-cô với Gio-an Mác-cô, và
Gio-an Mác-cô là anh em họ của
Ba-na-ba. Tuy nhiên, Hippolytus thành Rôma đã
phân biệt Mác-cô (2 Tim 4:11), Gio-an Mác-cô
(Cv 12:12, 25; 13:5, 13; 15:37), và Mác-cô là
người anh em họ của Ba-na-ba (Cl 4:10; Plm
1:24).
Theo
Hippolytus, họ đều thuộc nhóm“bảy
mươi hai môn đệ” được
Chúa Giêsu sai đi loan báo Tin Mừng
cho Giu-đê (Lc 10:1-12). Tuy nhiên, khi Chúa
Giêsu giải thích rằng thịt Ngài
là “thức ăn thật” và máu
Ngài là “thức uống thật”,
nhiều môn đệ đã bỏ Ngài
(Ga 7:66), trong số đó có Mác-cô.
Về sau, Mác-cô phục hồi đức
tin nhờ Phê-rô; Mác-cô là người
thông dịch của Phê-rô, viết Phúc
Âm thứ hai (Phúc Âm theo Thánh
Mác-cô), thiết lập Giáo hội Phi
châu, và trở thành Giám mục
của GP Alexandria.
Theo
Eusebius Caesarea (Eccl. Hist. 2.9.1–4), Hê-rô-đê
A-grip-pa I, vào năm thứ nhất của triều
đại cai trị toàn cõi Giu-đê
(năm 41), đã giết Gia-cô-bê, con
ông Dê-bê-đê, rồi bắt Phê-rô
và định giết ông sau Lễ Vượt
Qua. Ông Phê-rô được thiên
thần giải cứu, thoát khỏi tay Hê-rô-đê
(Cv 12:1-19). Ông Phê-rô tới Antiôkia,
rồi qua Tiểu Á (thăm các giáo
đoàn ở Pontus, Ga-lát, Cappadocia, Á
châu, và Bithynia, được đề
cập trong 1 Pr 1:1), và đến Rôma vào
năm thứ hai của triều đại hoàng
đế Claudius (năm 42 sau công nguyên;
Eusebius, Eccl, Hist. 2.14.6). Sau đó, Phê-rô
đã chọn Mác-cô cùng đồng
hành và làm người thông dịch.
Thánh sử Mác-cô viết các bài
giảng của Thánh Phê-rô, và biên
soạn Phúc Âm theo Thánh Mác-cô
(Eccl. Hist. 15–16), trước khi đi
Alexandria vào năm thứ ba của triều đại
hoàng đế Claudius (năm 43).
Năm
49 (sau công nguyên), khoảng 19 năm sau khi
Chúa Giêsu về trời, Thánh Mác-cô
tới Alexandria [x. c. 49 [x. Cv 15:36-41] và thành
lập giáo đoàn Alexandria – ngày
nay, cả Giáo Hội Chính Thống Coptic
và Giáo Hội Chính Thống Hy Lạp
ở Alexandria đều nhận mình là
những người kế tiếp của cộng
đoàn nguyên thủy này. Phụng Vụ
của Chính Thống Coptic có thể được
tìm thấy từ Thánh Mác-cô. Ngài
trở thành giám mục tiên khởi
của GP Alexandria, và ngài được
coi là người thiết lập Kitô giáo
ở Phi châu.
Theo
Eusebius (Eccl. Hist. 2.24.1), người kế vị
giám mục Mác-cô là giám mục
An-ni-a-nô, GP Alexandria, năm thứ tám của
triều đại hoàng đế Nero – có
thể khoảng năm 62 hoặc 63, có thể
chứ không xác định. Sau đó,
truyền thống Coptic cho biết rằng ngài
chịu tử đạo năm 68. Phúc Âm
theo Thánh Mác-cô được viết
bởi một tác giả nào đó.
Phúc Âm này không được viết
và không được coi là được
viết bởi các nhân chứng trực
tiếp chứng kiến các sự kiện.
Đoạn
Kinh Thánh chính yếu nói tới dấu
“tượng con thú” là trình
thuật Kh 13:15-18. Other references can be found trong Kh
14:9, 11; Kh 15:2; Kh 16:2; Kh 19:20 và Kh 20:4. Dấu này
là dấu dành cho những người theo
kẻ phản-kitô và tiên tri giả
(nói về người phản-Kitô). Tiên
tri giả (con vật thứ hai) là người
làm cho những người khác nhận
dấu này. Dấu này được khắc
vào tay hoặc trán và không chỉ
là cái “thẻ” người ta
mang.
Bước
đột phá mới đây về y học
là cấy con chip, và kỹ thuật RFID đã
khiến người ta quyết tâm tới “dấu
con thú” được nói tới trong
chương 13 của sách Khải Huyền. Có
thể kỹ thuật chúng ta thấy ngày
nay biểu tượng cho các giai đoạn
khởi đầu của những gì mà
có thể cuối cùng được dùng
làm “dấu con thú”. Cần nhận
biết rằng việc cấy con chip không là
dấu của con thú. Dấu con thú sẽ
là cái gì đó chỉ trao cho
những người tôn thờ kẻ phản-kitô.
Được cấy con chip vào tay phải
hoặc trên trán không là dấu của
con thú. Dấu con thú sẽ là sự
xác định của thời tận cùng
được kẻ phản-Kitô đòi
hỏi để mua hoặc bán, và điều
này sẽ chỉ được trao cho những
người tôn thờ kẻ phản-kitô.
Nhiều
người trình bày Khải Huyền rất
khác với bản chất chính xác
của dấu con thú. Ngoài quan điểm
về việc cấy con chip, kể cả thẻ
căn cước (chứng minh nhân dân –
ID card), con chip, mã vạch được xăm
trên da, hoặc chỉ là dấu xác
định ai đó là người trung
tín với vương quốc của kẻ
phản-kitô. Điều cuối cùng này
đòi hỏi cách suy nghĩ cuối cùng,
vì điều đó không thêm thông
tin gì vào những thông tin mà Kinh
Thánh cho chúng ta biết. Chúng ta không
dành nhiều thời gian suy nghĩ về các
chi tiết chính xác.
Ý
nghĩa của số 666 là một bí ẩn.
Một số người cho rằng có mối
liên quan với 6-6-2006 (tức là 06-06-06).
Tuy nhiên, chương 13 trong sách Khải
Huyền nói rằng con số 666 xác định
một con người, chứ không là ngày
tháng. Kh 13:18 cho biết: “Đây
là lúc cần phải có sự khôn
ngoan. Ai có trí thông minh hãy tính
ra số của tên Con Thú, vì đó
là số của tên một người, và
số của tên người ấy là sáu
trăm sáu mươi sáu”.
Bằng cách nào đó, con số 666 sẽ
xác định kẻ phản-kitô. Nhiều
thế kỷ qua, cách dịch giả Kinh Thánh
đã cố gắng xác định các
cá nhân nào đó với con số
666. Không có gì để kết luận.
Đó là lý do Kh 13:18 nói rằng
con số này đòi hỏi sự khôn
ngoan. Khi người phản-kitô bị phát
hiện (2 Tx 2:3-4), điều đó sẽ cho
biết đó là ai và con số 666
đồng hóa như thế nào.
Năm
828, thánh tích được coi là di
hài của Thánh Mác-cô đã
bị hai thương gia người Venece đánh
cắp ở Alexandria với sự trợ giúp
của hai tu sĩ người Hy Lạp và đưa
tới Venice. Một bức khảm ở Nhà
thờ Thánh Mác-cô mô tả các
thủy thủ che giấu thánh tích bằng
một lớp thịt heo và cải bắp. Từ
khi Hồi giáo không cho phép ăn thịt
heo, điều này được áp dụng
để ngăn chặn các vệ sĩ khỏi
kiểm tra hàng hóa trên tàu. John
Julius Norwich nói: “Lịch
sử không ghi lại việc bắt giữ trơ
trẽn về thi hài”.
Năm
1063, trong khi xây dựng giáo đường
mới ở Venice, thánh tích của Thánh
Mác-cô không thể tìm thấy. Tuy
nhiên, theo truyền thống, năm 1094 chính
thánh nhân đã báo cho biết vị
trí có di hài của ngài ở
trong một cây cột. Thánh tích mới
tìm thấy này được đặt
vào một chiếc quách bằng đá
và đặt ở trong giáo đường
này.
TRẦM
THIÊN THU
(chuyển
ngữ từ GotQuestions.org)
|