GẶP
ĐẤNG PHỤC SINH
(Chúa
Nhật Đại Lễ Phục Sinh, năm A)
Có
một câu chuyện vui liên quan sự sống
lại như thế này…
Thầy
giáo hỏi học sinh: “Nếu
thầy sống tốt lành, khi chết thầy
có được lên trời không?”.
Cả lớp thưa “không”. Thầy
lại hỏi: “Nếu
thầy sống thánh thiện, yêu thương
tha nhân, làm việc bác ái và
từ thiện, thầy có được lên
trời không?”.
Cả lớp lại đồng loạt thưa
“không”. Thầy giáo hỏi: “Vậy
thầy phải làm sao mới được
lên trời”.
Cả lớp nhìn nhau. Một em rụt rè
thưa: “Dạ,
dạ… thầy phải chết trước
ạ!”.
Vấn
đề hoàn toàn… tất nhiên.
Có chết thì mới sống lại. Sống
lại mới có thể lên trời. Câu
chuyện vui này cũng nhắc chúng ta phải
luôn nhớ rằng “ai cũng phải chết
một lần” và rồi mới sống
lại. Chúa Giêsu đã chết và
Ngài đã thực sự sống lại,
củng cố niềm tin của chúng ta: “Tôi
tin xác loài người ngày sau sẽ
sống lại”.
Dù
là ai thì cũng chỉ có một cuộc
sống, tức là chỉ sống một lần
và chết một lần. Đó là
điều ai cũng biết dù chưa bao giờ
trải nghiệm sự chết (trừ một số
người được đặc ân riêng).
Và dù có sự sống lại nhưng
cũng không ai đã chứng kiến. Chúng
ta chỉ biết qua lời Thánh sử Luca kể
lại chuyện anh La-da-rô nghèo khổ và
ông đại gia giàu có (x. Lc 16:19-31).
Tuy
nhiên, sự sống lại đã thực
sự xảy ra: chính Đức Kitô đã
bị người ta giết chết bằng cách
đóng đinh vào Thập Giá và
đã được an táng trong mộ đá,
thế nhưng Ngài đã sống lại
vinh quang. Quả thật, nếu Đức Kitô
không sống lại, niềm tin của chúng
ta chỉ là ảo tưởng, là chuyện
hoang đường! Nhưng Đức Kitô đã
thực sự sống lại, như vậy thì
đức tin của chúng ta đã được
“đóng ấn tín đời đời”.
Điều đó đã được
Thánh Phaolô minh chứng: “Nếu
Đức Kitô đã không trỗi dậy
thì lòng tin của anh em thật hão
huyền, và anh em vẫn còn sống trong
tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả
những người đã an nghỉ trong Đức
Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng
ta đặt hy vọng vào Đức Kitô
chỉ vì đời này mà thôi,
chúng ta là những kẻ đáng
thương hơn hết mọi người”
(1 Cr 15:17-19).
Mặc
dù chỉ là những con người bình
thường, nhưng ai cũng có nỗi nhớ.
Gọi là nỗi nhớ thì không có
giới tính. Vậy tại sao lại người
ta lại gọi là nỗi-nhớ-đàn-bà
mà không là nỗi-nhớ-đàn-ông?
Phải chăng vì phụ nữ có “khoảng
nhớ” lớn hơn nam giới? Có phần
đúng. Theo khoa học, MỘT bộ óc
nhưng có HAI bán cầu não. Phụ
nữ “nói nhiều” hơn nam giới
vì họ sử dụng cả hai bán cầu
não một lượt, còn nam giới chỉ
sử dụng một bán cầu não.
Như
vậy, có thể nói rằng “khoảng
nhớ” của phụ nữ lớn hơn nam
giới. Trong tình trường bình thường,
khi bị phụ tình (hoặc tình phụ),
nỗi nhớ ở phụ nữ vẫn “lâu
và sâu” hơn ở nam giới là
vậy. Khoa học không có gì trái
ngược với đức tin Công giáo.
Đức tin vẫn cần có lý trí
tỉnh táo. Quả thật, phụ nữ được
Thiên Chúa ưu đãi nhiều điều
lắm, có lẽ vì họ chịu thiệt
thòi nhiều. Âu cũng là công bình
hợp lý!
Thiên
Chúa là Đấng
giàu lòng thương xót và rất
mực
yêu mến
chúng ta (Ep 2:4),
nhưng Ngài là
Đấng
công minh chính
trực (Dcr
9:9b; Hc
5:3; Br 2:6; Br 2:9; Đn 9:14;
Tv 7:18; Tv 9:9; Tv 11:7; Tv 25:8; Tv 67:5; Tv 146:7), không
thiên vị bất kỳ ai (Hc
35:12; Lc
20:21; Rm 2:11; Gl 2:6; Ep 6:9), và Thánh
Phêrô cũng xác nhận: “Quả
thật, tôi biết rõ Thiên Chúa
không thiên vị người nào”
(Cv 10:34). Điều này vừa đáng
mừng vừa đáng lo. Thật “đáng
mừng” vì chúng ta không sợ bị
thua thiệt, vì Thiên Chúa công minh
và không thiên vị; nhưng lại
“đáng lo” nếu chúng ta ngộ
nhận mà tưởng mình “ngon”
hơn người khác.
Thánh
Phêrô nói về biến cố đã
xảy ra tại Giuđê, bắt đầu từ
miền Galilê, sau phép rửa mà ông
Gioan rao giảng, và nói về lai lịch
về Đức Giêsu xuất thân từ
Nadarét, Thiên Chúa đã dùng
Thánh Thần và quyền năng mà xức
dầu tấn phong Ngài. Đi tới đâu
là Ngài thi ân giáng phúc tới
đó, và chữa lành mọi kẻ
bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên
Chúa ở với Ngài.
Ngày
xưa, các tông đồ đã can đảm
làm chứng về mọi việc Đức
Giêsu đã làm trong cả vùng dân
Do Thái và ngay tại TP Giêrusalem: “Họ
đã treo Người lên cây gỗ mà
giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa
đã làm cho Người trỗi dậy,
và cho Người xuất hiện tỏ tường,
không phải trước mặt toàn dân,
nhưng trước mặt những chứng nhân
Thiên Chúa đã tuyển chọn từ
trước, là chúng tôi, những kẻ
đã được cùng ăn cùng
uống với Người, sau khi Người từ
cõi chết sống lại. Người truyền
cho chúng tôi phải rao giảng cho dân,
và long trọng làm chứng rằng chính
Người là Đấng Thiên Chúa
đặt làm thẩm phán, để xét
xử kẻ sống và kẻ chết. Tất
cả các ngôn sứ đều làm
chứng về Người và nói rằng
phàm ai tin vào Người thì sẽ
nhờ danh Người mà được ơn
tha tội”
(Cv 10:39-43).
Thật
là tuyệt vời vì Đức Kitô
đã sống lại và chắc chắn
chúng ta cũng sẽ được sống
lại như Ngài, đó là một ân
huệ quá lớn, Vì thế, chúng ta
phải hết lòng “tạ ơn Chúa
vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời
Chúa vẫn trọn tình thương”
(Tv 118:1). Và còn nữa, chính “tay
hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay
hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã
ra oai thần lực” nên tử thần đã
chiến bại ê chề, mất khả năng
hoành hành như trước. Do đó,
Thánh Vịnh gia rất hân hoan: “Tôi
không phải chết, nhưng tôi sẽ
sống, để loan báo những công việc
Chúa làm”
(Tv 118:17). Những điều kỳ diệu không
ngừng nối tiếp nhau: “Tảng
đá thợ xây nhà loại bỏ lại
trở nên đá tảng góc tường.
Đó chính là công trình của
Chúa, công trình kỳ diệu trước
mắt chúng ta”
(Tv 118:22-23). Và chỉ có Thiên Chúa
mới khả thi những điều kỳ diệu
như vậy!
Vừa
xác định vừa nhắc nhở, Thánh
Phaolô nói: “Anh
em đã được trỗi dậy cùng
với Đức Kitô, nên hãy tìm
kiếm những gì thuộc thượng giới,
nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu
Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng
trí về những gì thuộc thượng
giới, chứ đừng chú tâm vào
những gì thuộc hạ giới”
(Cl 3:1-2). Thật vậy, Đức Kitô là
nguồn sống của chúng ta, Ngài xuất
hiện thì chúng ta cũng được
xuất hiện với Ngài và cùng
Ngài hưởng phúc vinh quang (Cl 3:3-4).
Tiếp
tục giải thích, Thánh Phaolô cho biết
thêm: “Đức
Kitô đã chịu hiến tế làm
chiên lễ Vượt Qua của chúng ta.
Vì thế, chúng ta đừng lấy men
cũ, là lòng gian tà và độc
ác, nhưng hãy lấy bánh không
men, là lòng tinh tuyền và chân
thật, mà ăn mừng đại lễ”
(1 Cr 5:7-8). Tất cả đều biến đổi
hoàn toàn, điều đó có thể
là được biến đổi hoặc
tự cố gắng biến đổi.
Tin
Mừng hôm nay là trình thuật Ga
20:1-9, rất ngắn gọn. Chàng Gioan cho biết
rõ ràng: Sáng sớm ngày thứ
nhất trong tuần, lúc trời còn tối,
bà Maria Mácđala đi đến mộ
và thấy tảng đá đã lăn
khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp
người “tổ trưởng” Phêrô
và người môn đệ được
Đức Giêsu thương mến – tức
là chàng trai trẻ Gioan, người tựa
đầu vào ngực Thầy Giêsu và
nghe được “nhịp tình thổn
thức” của Thầy ngay trong Bữa Tiệc
Ly.
Thấy
ngôi mộ trống trơn, bà Maria Mácđala
vừa lo sợ vừa thắc mắc: “Người
ta đã đem Chúa đi khỏi mộ;
và chúng tôi chẳng biết họ để
Người ở đâu”.
Thật tội nghiệp, chắc hẳn bà
buồn lắm, và bà thấy nhớ Thầy
Giêsu da diết. Các môn đệ nghe
nói vậy cũng cảm thấy hoang mang. Vì
trong thời gian này, “vụ án Chúa
Giêsu” vẫn còn gây chấn động
mạnh, chưa thể nào lắng xuống, ai
cũng sợ người Do-thái khủng bố
và áp bức, thế nên chẳng ai dám
đi lại nhiều, có ở nhà thì
cũng đóng cửa kín mít, đi
đâu thì phải mắt trước mắt
sau, đi như chạy, vội vàng như bị
ma đuổi vậy.
Hai
ông Phêrô và Gioan liền đi ra mộ
xem sự thể ra sao ngay sau khi nghe bà Maria
Mácđala thông báo. Cả hai người
cùng chạy, nhưng Gioan còn trẻ nên
chạy mau hơn ông Phêrô và đã
tới mộ trước. Ông Gioan cúi xuống
và nhìn thấy những băng vải còn
ở đó, nhưng không vào, đợi
cho Phêrô đến nơi và vào
trước, “kính lão đắc thọ”
theo phép lịch sự.
Tới
nơi, ông Phêrô vào thẳng trong
mộ, thấy những băng vải để ở
đó, và khăn che đầu Đức
Giêsu. Kinh Thánh cho biết rằng tấm
khăn này không để lẫn với
các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp
riêng ra một nơi. Bấy giờ chàng
Gioan cũng đi vào, nhìn thấy cụ
thể và đã thực sự tin. Lúc
này hai người tin thật rồi, chứ
không như trước đó. Và hai
ông chợt hiểu rằng Đức Giêsu
phải trỗi dậy từ cõi chết theo
như Kinh Thánh đã nói, và chính
Thầy Giêsu cũng đã cho biết trước
đó.
Đúng
là hai năm rõ mười, mọi điều
đã tỏ tường, ai cũng hân hoan
tột độ, và cũng không còn
cảm thấy sợ hãi chi nữa. Chính
Đức Kitô Phục Sinh đã biến
đổi họ hoàn toàn, từ con người
nhút nhát trở thành con người
dũng cảm, từ con người yếu đuối
trở nên mạnh mẽ, ngay cả các phụ
nữ cũng bỗng nhiên biến thành
những chứng nhân sống động của
Đức Kitô Phục Sinh. Chúng ta thấy
rằng các phụ nữ có thể “hấp
tấp” một chút, dẫu cho “sâu
sắc như cơi đựng trầu”, thế
nhưng họ vẫn có những điều
để cho chúng ta phải học hỏi.
Thật vậy, bà Maria Mácđala là
người đầu tiên được diện
kiến Đấng Phục Sinh.
Có
mối liên kết với nhau giữa hai động
từ THẤY và TIN. Có người thấy
mà không tin, vậy là vô ích.
Chỉ có ai thấy và tin thì mới
đáng nói. Khoảng giữa hai hành
động đó là sự biến đổi
mau chóng và thực sự là điều
kỳ diệu. Tất cả đều nhờ bởi
ơn Chúa, từ khởi sự cho đến
hoàn thành.
Lạy
Thiên Chúa toàn năng chí ái,
cúi xin Ngài củng cố đức tin nơi
con để con có thể biến đổi
mau chóng khi con thấy những điều kỳ
diệu mà Ngài vẫn không ngừng
thực hiện trong cuộc đời của con
và của tha nhân, xin Ngài cũng giúp
con can đảm làm chứng về Đức
Kitô Phục Sinh trong suốt cuộc đời
con, qua những khả năng mà con được
Ngài trao ban. Xin giúp con hành động
vì vinh danh Ngài và cứu các linh
hồn, xin cho con gặp được Phục Sinh
nơi tha nhân và qua công việc con làm.
Con chân thành cầu xin nhân danh Đức
Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng cứu độ
nhân loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
|