HIỆP SỐNG TIN
MỪNG
CN LỄ NGÀY PHỤC
SINH ABC
Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4;
Ga 20,1-9
ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN MẦU NHIỆM
CHÚA PHỤC SINH
I.
HỌC LỜI CHÚA
1.TIN
MỪNG: Ga 20,1-9
(1) Sáng
sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn
tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì
thấy tảng đá lăn khỏi mộ. (2) Bà liền
chạy về gặp Simon Phê-rô và người môn
đệ thương
mến. bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi
khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để
Người ở đâu ?”. (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia
liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy,
nhưng môn đệ kia mau hơn ông Phê-rô và đã tới
mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy
những băng vải còn ở đó nhưng không vào. (6)
Ông Simon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào
thẳng trong mộ, thấy những băng vải
để ở đó, (7) và khăn che đầu, khăn này
không để lẫn với các băng vải, nhưng
cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy
giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới
mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và
đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông
chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi
dậy từ cõi chết.
2. Ý CHÍNH:
Gio-an viết Tin Mừng nhằm
mục đích “Để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng
Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được
sự sống nhờ danh Người” (ga 20,31). Riêng
đoạn Tin Mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức
Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại
như Người đã báo trước.
3. CHÚ
THÍCH:
- C 1: + Ngày Thứ Nhất trong
tuần: Theo Sáng Thế
Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày. ngày Thứ
Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và bắt đầu một
tuần lễ. Về sau, Giáo Hội dựa vào việc Chúa
Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên gọi là
ngày Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. +sáng sớm… lúc trời
còn tối: Về thời gian khi các phụ nữ ra
thăm mộ, các Tin Mừng có những diễn tả
hơi khác nhau: Ở đây Gio-an viết: “Sáng sớm ngày
Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga
20,1); Còn Mát-thêu viết: “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất
trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); So với Mác-cô:
“Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc
mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2) ; Riêng Lu-ca lại
viết: “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng
sáng” (x. Lc 24,1). + Ma-ri-a Mác-đa-la: Mác-đa-la là một thị
trấn nằm trên bờ phía tây biển hồ Ghen-nê-xa-rét.
Là quê của bà Ma-ri-a. Bà đã từng bị 7 quỷ ám
trước khi theo Chúa Giê-su (x. lc 8,2). Bà là một trong
những phụ nữ đầu tiên đã ra thăm
mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1; Lc 24,10). Trước đó, bà
đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga
19,25; Mt 27,56) và đã chứng kiến hai môn đệ mai
táng Thầy trong mồ (x. Mt 27,61; Mc 15,47).
- C 2: + Bà liền chạy về
gặp ông Si-mon Phê-rô:
Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phê-rô
là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Do
đó, Ma-ri-a Mác-đa-la cần phải báo cáo với ông
trước tiên về việc xác Thầy biến mất. + Và
người môn đệ
thương mến: Cách nói “môn đệ
được thương mến” là kiểu nói riêng trong
Tin Mừng Gio-an. Đây là cách tác giả nói về mình
một cách khiêm tốn khi không muốn nhắc đến
tên của mình. + Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ
và chúng tôi không biết: Khi thấy mồ trống,
Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa
sống lại như nhiều lần Người đã
báo trước, mà bà chỉ theo suy luận tự nhiên để
cho rằng ai đó đã đến mang xác Thầy ra
khỏi mồ. Từ “Chúng tôi” trong câu này ám chỉ Ma-ri-a
không đi ra mồ Chúa một mình mà đi chung với
mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).
-C 3-4: + Ông Phê-rô và môn đệ kia
liền đi ra mộ:
Khi được các phụ nữ báo tin mộ trống và
xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là
Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra mộ
để kiểm tra thực hư. điều đó cho thấy
lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi
vượt của hai ông. + Môn đệ kia chạy mau
hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước: Lý
do Gio-an chạy nhanh hơn và đến mộ trước
Phê-rô đơn giản là vì ông trẻ hơn nên khỏe và chạy nhanh
hơn Phê-rô, và có lẽ cũng vì nôn nóng do yêu mến
Thầy nhiều hơn.
- C 5-6: + Băng vải còn ở đó: Đây là tấm vải lớn bao
bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền
thuyết còn được lưu giữ tại nhà
nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước
Ý. +
Nhưng không vào: Gioa-an không vào có thể do ông tôn
trọng và nhường cho Phê-rô là đàn anh vào
trước mình. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông cảm
thấy bàng hoàng trước sự kiện cửa mồ
rộng mở và mải lo suy nghĩ về những
tấm khăn để lại, đủ thời gian cho
Phê-rô theo sau kịp chạy đến nơi. +
Si-mon Phê-rô … vào thẳng trong mộ: Phê-rô tính nóng
nảy nên lập tức bước vào trong mồ.
- C 7-9: + Và
khăn che đầu. Khăn này không để lẫn
với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp
riêng ra một nơi: Bên trong mộ các khăn liệm xác
vẫn còn để lại, khác với trường
hợp La-da-rô khi sống lại ra ngoài trong tình trạng
“chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn (x. Ga
11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giê-su không
cần ai giúp đỡ khi trỗi dậy ra khỏi
mồ. Người đã tự lăn tảng đá che kín
mộ ra thì cũng có thể tự tháo gỡ các khăn
liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện
khăn còn để lại cho Gio-an thấy Thầy Giê-su
đã thực sự sống lại. Vì không kẻ trộm
nào lại bỏ công sức và thời gian để làm
một việc vô ích là cởi các dây vải ra và xếp
gọn để vào một chỗ rồi mới đem
xác trần đi cả ! + Ông đã thấy và đã tin:
Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải
liệm xác được xếp gọn lại đã giúp
Gio-an suy luận và đạt tới đức tin vào mầu
nhiệm Đức Giê-su đã từ cõi chết sống
lại. +Trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo
Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi
chết: Trước khi thấy các dấu chứng
vừa nói thì Gio-an và các Tông đồ đều không tin
Thầy các ông sẽ sống lại, dù Người đã
báo trước tới ba lần (x. Mt 16,21; 17,23; 20,19).
Nhưng khi thấy các dấu chứng như mồ
trống, các khăn vải liệm xác, dây băng
được cuộn lại riêng một chỗ, thì các
ông đã nhớ lại những lời Thánh Kinh
được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su và
tin Người đã thực sự sống lại từ
cõi chết (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao ngày nay người ta gọi
ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật ? 2) Về
thời điểm bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mồ
Chúa, so sánh bản tường thuật của 4 tác giả
Tin Mừng khác nhau như thế nào ? 3) Bạn biết gì
về thân thế của bà Ma-ri-a Mác-đa-la ? 4) Bà đã báo
tin xác Thầy biến mất cho ai ? Tại sao ? 5) Qua câu nói
với Phê-rô và Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin việc
Thầy Giê-su đã phục sinh hay không ? 6) Hành động
chạy nhanh ra mồ của Phê-rô và Gio-an cho thấy tinh
thần trách nhiệm của 2 ông như thế nào ? 7)
Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô ? 8)Tại sao ông
Gio-an đến mộ trước Phê-rô mà không vào bên trong mộ
ngay ? 9) Khi thấy hiện tượng mồ trống,
băng vài và khăn che đầu được xếp
gọn, hai ông đã tin gì về mầu nhiệm Đức
Giê-su sống lại ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin
(Ga 20,8).
2. CÂU CHUYỆN:
1) VỀ SỨ VỤ RAO GIẢNG TIN
MỪNG PHỤC SINH:
Sau khi chịu chết
trên thập giá, Đức Giê-su đã sống lại và vào
trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn
Người vẫn còn mang những dấu tích đau
thương từ những cây đinh nhọn và
lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần
đã lên tiếng hỏi Đức Giê-su rằng: “Chắc
Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã
do loài người dưới thế gây ra ?” Người
đáp: “Đúng vậy !” Thiên thần hỏi tiếp: “Có
phải tất cả con cái loài người đều
biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết
để đền thay các tội lỗi của họ
không ?” Chúa trả lời: “Chưa đâu, mới chỉ có
một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên
thần lại nói: “Thế thì Chúa đã làm gì để
họ nhận biết ơn cứu độ đó ?” Chúa đáp: “Ta lại đi loan báo
Tin Vui cho những người khác, đến khi nào tất
cả mọi người trên địa đầu
đều được nghe Tin Mừng cứu độ
ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính
bốc đồng của loài người và nghi ngờ
họ nên hỏi tiếp: “Giả như Phê-rô, Gio-an và các
Tông đồ quên thi hành sứ mệnh rao giảng đó
thì sao ? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào
đó gặp phải những bách hại chống
đối của kẻ gian ác mà chán nản buông xuôi thì sao
? Chúa có lập thêm một chương trình cứu
độ nào khác nữa thôi ?” Chúa Giê-su trả lời: “Ta
sẽ không bao giờ lập ra thêm một chương trình
cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết
trước tính khí con cái loài người thường nhát
đảm sợ sệt và bất định, nên đã
thổi hơi ban sức mạnh Thần Khí của Ta cho
họ, để giúp họ thi hành sứ mệnh, và Ta hoàn
toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được
sứ mệnh đó”.
2) ĐƯỢC PHỤC SINH NHỜ
SỐNG THEO LỜI CHÚA DẠY:
Cuốn phim “Chiếc
cầu sông Quai” diễn tả câu chuyện phục sinh tại
một trại tù như sau:
Vào thời đệ nhị thế
chiến, những người lính đồng minh bị
quân đội Nhật bắt làm tù binh, được
đem tới vùng biên giới Miến Điện và Thái Lan
để xây dựng tuyến đường sắt
vận chuyển vũ khí. Cuộc sống ở đây
thật khắc nghiệt. Họ bị cưỡng
bức lao động dưới cái nóng như đổ
lửa, có khi lên tới những 49 độ. Họ bị
đối xử một cách tàn thệ. Chính cuộc
sống khắc khổ này đã làm cho họ trở nên
những con người độc ác. Họ cư xử
với nhau bằng luật rừng « Mạnh
được yếu thua », trộm cắp, nghi
ngờ và làm tay sai chỉ điểm nhau cho bọn lính cai
tù.
Thế rồi một
điều khó tin đã xảy ra: Có hai tù nhân nọ, đã
tổ chức cho những bạn tù của mình thành một
nhóm học hỏi Lời Chúa. Và nhờ sự học
hỏi này, mà Lời Chúa bắt đầu thấm vào tâm
hồn họ, để rồi chính họ khám phá ra
Đức Kitô đang sống giữa họ. Ngài hiểu
và cảm thông với nỗi đau của họ, bởi
vì Ngài cũng đã từng sống vất vả, đã
từng chịu cảnh đói khát mệt mỏi, đã
từng bị môn đệ phản bội và đã
từng bị bọn lính Rô-ma đánh đòn... Từ
đó, tất cả những lời Đức Giê-su nói và những
việc Ngài làm đều mang một ý nghĩa mới và
trở nên sống động đối với các tù nhân. Họ
không còn nghĩ mình là nạn nhân của một cuộc
chiến dã man. Họ không còn chỉ điểm và trộm
cắp của nhau, nhưng đối xử với nhau
bằng tình thương yêu và nhất là họ bắt
đầu cầu nguyện cho nhau.
Từ đó, trong trại
tù thỉnh thoảng có những tiếng hát vui tươi
thay cho sự thinh lặng căng thẳng, giống như sự
khác biệt giữa cái chết và sự phục sinh. Nói cách
khác, sự biến đổi xảy ra trong trại tù chính
là một lễ phục sinh, là một phép lạ làm cho
họ tin tưởng lẫn nhau thay vì nghi ngờ nhau. Làm
cho họ biết chia sẻ với nhau thay vì trộm
cắp. Làm cho họ biết giúp đỡ nhau thay vì tìm cách
chỉ điểm làm hại lẫn nhau.
3) TÌNH YÊU MẠNH HƠN SỰ CHẾT:
Một cuốn phim mang
tựa đề “Thế Giới Trong Tăm Tối”
diễn tả câu truyện về một nhà khảo cổ
danh tiếng tổ chức một cuộc khai quật khoa
học ở Giêrusalem.
Ngọn
đồi Golgotha được cẩn thận đào
bới, kể cả những phiến đá và các hang
động của một nghĩa trang bên cạnh cũng
được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo
Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa Giêsu được chôn
cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị
án tử hình Thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét,
một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: “Tôi đã tìm
được xác ông Giêsu”. Rồi ông tổ chức
một cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng
trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày
kết quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào bới
khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn
trước mặt mọi người một xác
người đã khô đét, nhưng còn có thể nhận
ra là tay chân của xác người này bị đâm
thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả
những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị
nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn
liệm xác.
Cuốn
phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo
dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có
một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây
là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh,
đã chết và đã được táng xác” và nhà khảo
cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng
đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có
chuyện Phục Sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn nằm
đây”.
Tiếp
đến, cuốn phim diễn tả hậu quả
của cuộc tìm được xác ông Giêsu:
-
Không
ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.
-
Một
linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và
đóng cửa nhà thờ.
-
Chuông các thánh đường im
tiếng.
-
Các nữ tu cởi khăn trùm
đầu.
-
Thánh giá tại nhiều nơi bị
hạ xuống.
-
Đèn bên những ngôi mộ bị
dập tắt.
-
Thế giới chìm đắm trong màn
đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc
với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp
hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta
đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới.
Chính tôi đã làm giả xác của ông Giê-su và bí mật
đặt vào trong mộ mấy năm trước khi
khởi sự cuộc đào bới tìm kiếm này”.
Sau lời tuyên bố
đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi
mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng
năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến
được thắp lên và các tín hữu mang những
ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến
của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con
đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang
như báo tin Chúa Giêsu đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh
hơn tội lỗi. Sự
sống mạnh hơn cái chết.
3. SUY NIỆM:
Bằng lối văn
súc tích và hàm chứa những tư tưởng sâu sắc,
Tin Mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức
tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng
trong bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay như sau:
1) LÒNG MẾN ĐÃ THÚC BÁCH MA-RI-A
MÁC-ĐA-LA ĐI TÌM CHÚA:
Niềm vui Phục Sinh
khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la
đi thăm mộ ngay từ sáng tinh sương ngày
Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy
tảng đá che cửa mồ đã bị lăn sang
một bên và xác Thầy trong mộ biến mất. Cũng
như do lòng mến đã làm cho bà thêm can đảm
đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại
chứng kiến việc 2 môn đệ an táng Thầy
trước đó (x. Mt 27,61), thì giờ đây lại thôi
thúc bà cùng mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ
để ướp xác Thầy theo phong tục Do thái (x. Mc
16,2). Khi thấy mộ trống, Ma-ri-a hốt hoảng
chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga
20,2). Theo bà suy nghĩ thì ai đó đã đến lấy
mất xác Thầy và bà không biết họ đã để
Thầy ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a không hề nghĩ
rằng Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm
lại được xác Thầy để mang về chôn
lại trong mộ mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra
mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do
lòng mến thôi thúc, Ma-ri-a lại quay ra mồ than khóc. Trong
lần ra mộ thứ hai này, bà đã trở thành
người đầu tiên gặp được Chúa
Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ
mệnh đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông
đồ như sau: “Hãy đi gặp anh em Thầy và
bảo họ rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy,
cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy,
cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).
2) LÒNG MẾN ĐÃ GIÚP GIO-AN NHẬN
BIẾT CHÚA PHỤC SINH TRƯỚC ANH EM:
Gio-an là một trong
bốn môn đệ được Thầy kêu gọi
đầu tiên (x Mt 4,21). Là một trong ba môn đệ
được chứng kiến Thầy biến hình (x Mt
17,1) và cũng là người môn đệ được
Thầy yêu mến nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với
Thầy đã thôi thúc ông, làm cho ông trở thành người
can đảm hơn cả: Không bỏ chạy nhưng âm
thầm theo dõi các sự kiện xảy ra từ lúc
Thầy bị bắt đến khi bị xét xử
giữa hai tòa án đạo và đời; Can đảm
đứng dưới chân thập giá để chứng
kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và
được Thầy trăn trối Đức Ma-ri-a làm
Mẹ của mình và đón Mẹ về nhà mà phụng
dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19,27). Cũng do tình yêu thôi
thúc mà Gio-an đã trở thành người môn đệ
đầu tiên trong Nhóm Mười Hai nhận ra Chúa
Phục Sinh tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7). Cũng
chính tình yêu ấy đã thúc bách Gio-an chạy nhanh hơn
Phê-rô và đạt đến đức tin trước
Tông đồ Phê-rô (x Ga 20,8).
3) LÒNG MẾN LÀM PHÊ-RÔ ĐƯỢC THA TỘI
VÀ ĐƯỢC TRAO QUYỀN MỤC TỬ:
Phê-rô là một trong
bốn môn đệ đã theo Đức Giê-su trước
hết (x. Mt 4,18-20). Ông đã tình nguyện bỏ hết
mọi sự mà đi theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30).
Ông luôn được xếp đứng đầu danh sách
Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn
đệ được nhìn thấy Thầy biến hình
trên núi cao (x Mt 17,1), được chứng kiến phép
lạ Người cho bé gái mới chết sống lại
(x Lc 8,51), được ở gần Đức Giê-su khi
Người hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni
(x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su có lần đã đến
ở trọ tại nhà ông Si-mon Phê-rô tại thành Ca-phác-na-um
(x Mc 1,29). Phê-rô thường đại diện anh em tuyên
xưng đức tin “Thầy chính là Đức Ki-tô, Con
Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin
đó, Phê-rô đã được khen có phúc, và
được Thầy hứa sẽ xây Hội Thánh trên
nền tảng đức tin vững chắc như đá
của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc
và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông còn được trao sứ mệnh củng cố
đức tin cho anh em sau khi trở lại (x. Lc 22,31-32).
Dù còn nhiều khuyết
điểm như: bị Thầy nặng lời quở
trách vì dám khuyên Thầy đừng chấp nhận con
đường thập giá (x Mt 16,22-23), hoặc có lúc ông
đã bị Thầy trách kém lòng tin (x Mt 14,31) hay trách khi ông
không muốn cho Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8). Bị trách
khi quá tự tin vào mình (x Mt 26,33-35). Nhất là đã hèn nhát
chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy
cảnh báo trước đó (x Mt 26,69-75). Nhưng bù
lại ông cũng có lòng yêu mến Thầy hơn mọi
người. Lòng mến của Phê-rô thể hiện qua
việc dứt khoát bỏ nghề chài lưới bắt
cá để theo Thầy làm nghề chài lưới các linh
hồn (x Mt 4,18-20). Ông cũng thường được
Đức Giê-su hỏi ý kiến như: Thầy trò có nên
nộp thuế Đền thờ không ? (x Mt 17,24-27). Có
lần ông hỏi ý Đức Giê-su về số lần
phải tha thứ cho anh em (x Mt 18,21). Ông cũng đại
diện anh em để tuyên xưng đức tin và thề
quyết trung thành với Thầy đến cùng (x Ga
6,68-69). Ông tỏ ra can đảm khi rút gươm ra chém tên
đầy tớ của thượng tế để
bảo vệ Thầy (x Ga 18,10). Ông đi theo Gio-an
để theo dõi diễn tiến cảnh Thượng
Hội Đồng xét xử Thầy (x Ga 18,15). Trong Tin
Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy
bị mất, Phê-rô cùng Gio-an chạy ra mộ để
kiểm chứng thực hư. Trước sự kiện
mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn,
Phê-rô đã tin Thầy đã sống lại chứ không
bị trộm xác (x Ga 20,8-9). Sau đó ông còn được
Chúa Phục Sinh hiện ra trước anh em Nhóm Mười
Một (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an quả
quyết người mặc áo trắng đứng trên
bờ hồ là Thầy, Phê-rô vội khoác áo vào nhảy
xuống biển bơi vào bờ để mau
được gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng tuyên
xưng lòng mến ba lần và được Thầy trao
sứ mệnh chăn dắt chiên con chiên mẹ và đàn
chiên Hội Thánh (x Ga 21,15-17). Lúc cuối đời ông còn
chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng
chịu chết để làm chứng cho thầy (x Ga
21,18-19).
4) GIÁ TRỊ CỦA ĐỨC TIN VÀ LÒNG
MẾN:
Chính lòng mến Chúa
đã làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối tội
lỗi, đi ra thăm mộ đầu tiên và đã
được Chúa Phục Sinh hiện ra trao sứ
mệnh loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các Tông đồ.
Cũng chính lòng mến đã làm cho Gio-an nhận ra Thầy
trước các anh em và thấy được ý nghĩa các
sự kiện của mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Lòng
mến cũng làm cho ông Phê-rô
luôn gắn bó với Thầy, hy sinh mọi sự
để theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc
yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông đã
mau hồi tâm sám hối và được Thầy tín
nhiệm trao sứ mệnh làm Đá Tảng đức tin,
củng cố đức tin cho anh em (x Lc 22,32), và còn được
trao quyền chăn dắt đàn chiên Hội Thánh.
Đối với các
tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để ta
khỏi bị thất vọng hay hốt hoảng khi
gặp đau khổ thất bại giữa đời
thường. Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống
như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì
chúng ta yêu quý nhất hoặc những người thân yêu
nhất không còn, chúng ta thường chạy đôn chạy
đáo đi tìm người chết trong nước
mắt như Ma-ria Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng
cái chết đã không giam hãm được sự sống:
Sự sống đã trỗi dậy từ cõi chết; Ánh
sáng đã bừng lên từ bóng tối tử thần;Tình
yêu đã chiến thắng hận thù và Tin Mừng sẽ
được loan báo đi khắp thế gian.
4.THẢO LUẬN:
1) Nơi Đức Giê-su sự sống
đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã
chiến thắng hận thù. Còn bạn, bạn có tin
rằng đối với những kẻ biết
đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì “Sau
cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ
cực sẽ tới hồi thái lai” hay không ? 2) Khi gặp
phải những hoàn cảnh đau thương trái ý,
bạn cần làm gì để không bị chán nản
thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy
vọng vào Chúa sẽ ban ơn giải cứu và giúp bạn
được ơn trỗi dậy ?
5. LỜI CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU
PHỤC SINH. Vì Chúa đã phục sinh, nên con luôn vững tâm
cậy trông vào Chúa. Vì Chúa đã phục sinh, nên con sẽ
không sợ khi gặp phải đau khổ thất bại
trong cuộc đời. Vì Chúa đã phục sinh, nên con
đã hiểu được lý do của những hành
động dấn thân: Cha Đa-miêng hy sinh cả cuộc
đời phục vụ các bệnh nhân phong cùi, Cha Kôn-bê
đã tình nguyện chịu chết thế chỗ cho
một tử tù, các thánh Tử Đạo VN đã sẵn
sàng chịu chết để làm chứng cho Chúa.
- LẠY CHÚA GIÊ-SU.
Sự phục sinh của Chúa vừa là lời mời
gọi, lại vừa lôi cuốn chúng con hướng tâm
hồn lên cao để nhận ra giá trị tương
đối của sắc đẹp, tiền bạc, danh
vọng, chức quyền trần gian… hầu noi
gương các thánh: sẵn sàng hy sinh tất cả vì tình
yêu Chúa và dám sống chết cho tình yêu ấy, để
quyết dấn thân đi khắp nơi rao giảng Tin
Mừng, sẵn sàng đón nhận những đau khổ
thua thiệt... vì xác tín rằng: “Chính khi hiến thân là khi
được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp
lại bản thân. Chính khi thứ tha là khi được
tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn
đời”.
X) HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM
|