NƯỚC
MẮT và MÁU
Nước
mắt và máu có màu sắc khác
nhau, nước mắt có màu trắng
trong và máu có màu đỏ thẫm,
nhưng cả hai liên quan “tình cảm”
và có “hương vị” tương
tự: Mặn. Nước mắt và máu
đều là chất lỏng, và thường
được tính bằng “giọt”
(giọt nước mắt, giọt lệ, giọt
máu). Thật là kỳ lạ!
Thứ
Sáu Tuần Thánh là ngày “đại
tang” của các Kitô hữu. Ngày
Huyết Lệ này liên quan hai ngày lễ
khác: Tháng 9, đất trời vào
Thu, sắc Thu vàng úa, màu Thu u buồn,
có lễ Suy Tôn Thánh Giá (Exaltatio
Sanctae Crucis) vào ngày 14 tháng 9 – ngày
đẫm sắc Bửu Huyết của Đức
Kitô Giêsu, và lễ Đức Mẹ
Sầu Bi (Mater Dolorosa) vào ngày 15 tháng
9 là – ngày đầy Châu Lệ
của Đức Mẹ Maria.
NƯỚC
MẮT ĐỨC MẸ…
Nước
mắt là một dung dịch được
tiết ra từ đôi mắt thông qua tuyến
lệ. Về mặt sinh học, nước mắt
là dung dịch làm sạch bụi bẩn,
hơi cay,… tuyến lệ tiết nước
mắt để làm ướt mắt, giúp
bảo vệ mắt. Về mặt tâm lý,
nước mắt là biểu hiện sinh động
cho trạng thái tâm lý đặc biệt,
gọi là khóc (có thể do buồn,
đau khổ, mất mát, tủi thân; cũng
có thể do hạnh phúc, vui mừng, sung
sướng).
Thành
ngữ “nước mắt cá sấu”
dùng để chỉ về những kẻ giả
hình, giả nhân, giả nghĩa. Thậm
chí người ta còn có dạng “khóc
mướn”. Tuy nhiên, nước mắt có
gì đó rất đặc biệt, và
khi nói đến nước mắt, người
ta thường nghĩ ngay tới nỗi đau
buồn. Nhà
thần luận và triết gia Voltaire (1694-1778,
Pháp) nói: “Nước
mắt là ngôn ngữ câm lặng của
nỗi đau buồn”.
Lễ
Đức Mẹ Sầu Bi (Mater Dolorosa) trước
đây gọi là lễ “Đức Mẹ
Bảy Sự”. Đó là bảy nỗi
đau khổ của Đức Mẹ, ví như
bảy lưỡi gươm đâu thâu
Trái Tim Đức Mẹ. Bảy nỗi đau
buồn đó là:
1.
Lời tiên tri của ông Simêon trong ngày
Đức Mẹ dâng Con trong Đền Thờ:
“Thiên
Chúa đã đặt cháu bé này
làm duyên cớ cho nhiều người
Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên.
Cháu còn là dấu hiệu cho người
đời chống báng; và như vậy,
những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều
người sẽ lộ ra. Còn chính bà,
một
lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm
hồn bà”
(Lc
2:34-35).
2.
Cuộc chạy trốn sang Ai Cập qua lời sứ
thần báo mộng cho Đức Thánh
Giuse: “Này
ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người
trốn sang Ai Cập, và cứ ở đó
cho đến khi tôi báo lại, vì vua
Hêrôđê sắp tìm giết Hài
Nhi đấy!” (Mt 2:13).
3.
Đức Mẹ lạc mất Con Trẻ Giêsu:
“Xong
kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn
cậu bé Giêsu thì ở lại
Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết.
Ông bà cứ tưởng là cậu về
chung với đoàn lữ hành, nên sau
một ngày đường, mới đi tìm
kiếm giữa đám bà con và người
quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông
bà trở lại Giêrusalem mà tìm”
(Lc
2:43-45).
4.
Đức Mẹ gặp Chúa Giêsu vác
Thập Giá (x. Mt 27:32; Lc 23:26-32; Mc 15:21).
5.
Chúa Giêsu trút hơi thở trên
Thập Giá: “Lạy
Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”
(Lc
23:46; x. Mt 27:50; Mc 15:37; Ga 19:30).
6.
Chúa Giêsu bị đâm vào cạnh
sườn: “Một
người lính lấy giáo đâm vào
cạnh sườn Người. Tức thì,
máu cùng nước chảy ra” (Ga
19:34).
7.
Chúa Giêsu được mai táng trong
huyệt đá (x. Mt 27:57-59; Mc 15:42-47; Lc 23:50-55;
Ga 19:38-42).
Đức
Mẹ mệnh danh là Đấng Đồng
Công (Coredemptrix). Danh từ Đức Mẹ Đồng
công bắt đầu xuất hiện từ
thế kỷ XIV trong một Thánh Thi được
sử dụng tại nhà thờ Thánh Phêrô
ở thành phố Salzburg (Áo quốc): “Pia,
dulcis et benigna, Nullo prorsus luctu digna, Si fletum hinc
eligeres. Ut compassa Redemptori, Captivato transgressori, Tu
Coredemptrix fieres – Mẹ nhân từ, hiền
dịu và khoan dung, Mẹ hoàn toàn
không đáng chịu một đau khổ
nào. Nếu từ đây Mẹ khóc
thương Như Người thông phần đau
khổ với Chúa Cứu Thế, Thì với
Đấng đã chịu tử hình, Mẹ
cũng trở nên Đấng Đồng Công
Cứu Chuộc”.
Công
đồng Vatican II, dưới triều đại
Đức Gioan XXIII và Đức Phaolô VI,
đã minh nhiên nêu rõ sứ mạng
Đồng Công Cứu Chuộc của Đức
Mẹ: “Đức
Maria đã tận hiến làm tôi tớ
Chúa, phục vụ cho thân thế và
sự nghiệp của Con Mẹ, và phục vụ
mầu nhiệm Cứu chuộc dưới quyền
và cùng với Con của Mẹ... Sự
liên kết giữa Mẹ và Con trong công
cuộc Cứu rỗi được tỏ rõ,
từ khi Mẹ Maria thụ thai Chúa Kitô
cách trinh khiết cho đến lúc Chúa
Kitô chết”.
Ngày
xưa, lễ Đức Mẹ Sầu
Bi còn sử dụng Ca Tiếp Liên:
“Mẹ sầu bi tầm tã giọt
châu đang đứng bên cây thập
giá, nơi Con Người đã bị
treo lên. Một lưỡi gươm
nhọn đã đâm qua tâm hồn
Bà đang rên siết, đang sầu
khổ và đau buồn. Ôi đau
buồn và sầu khổ biết
bao cho bà Mẹ đáng suy tôn của
một Người Con duy nhất…”.
Nhà
soạn nhạc Antonio Vivaldi (1678-1741, ông cũng
là tác giả của bản giao hưởng
nổi tiếng “Four Seasons” – Bốn
Mùa) đã sáng tác bài ca
“Stabat Mater Dolorosa” (Đức Mẹ đứng
dưới chân Thánh Giá…), bài
này diễn tả nỗi đau khổ tột
cùng của Đức Maria
(https://www.youtube.com/watch?v=F6V0TIsLrks).
…VÀ
MÁU ĐỨC KITÔ
Máu là
một tổ chức di động được
tạo thành từ thành phần hữu
hình là các tế bào (hồng
cầu, bạch cầu, tiểu cầu) và
huyết tương. Chức năng chính của
máu là cung cấp các chất nuôi
dưỡng và cấu tạo các tổ
chức cũng như loại bỏ các chất
thải trong quá trình chuyển hóa của
cơ thể – như khí carbonic và acid
lactic. Máu cũng là phương tiện
vận chuyển của các tế bào (cả
tế bào có chức năng bảo vệ
cơ thể lẫn tế bào bệnh lý)
và các chất khác nhau (amino acid, lipid,
hormone) giữa các tổ chức và cơ
quan trong cơ thể. Các rối loạn về
thành phần cấu tạo của máu hay
ảnh hưởng đến sự tuần hoàn
bình thường của nó có thể
dẫn đến rối loạn chức năng
của nhiều cơ quan khác nhau.
Có
hai vòng tuần hoàn tương đối
độc lập về mặt giải phẫu,
nhưng liên quan chặt chẽ về mặt
chức năng: tuần hoàn phổi (còn
gọi tiểu tuần hoàn) và tuần
hoàn hệ thống (còn gọi là đại
tuần hoàn). Hai vòng tuần hoàn này
đều hoạt động chủ yếu bởi
sức bơm của cơ tim.
Máu
chiếm 7% trọng lượng cơ thể, với
tỷ trọng trung bình khoảng 1060 kg/m3,
gần giống với tỷ trọng nước
nguyên chất (1000 kg/m3).
Người trưởng thành trung bình có
khoảng 5 lít máu, bao gồm một số
loại huyết cầu khác nhau, còn gọi
là thành phần hữu hình, và
huyết tương. Huyết cầu gồm hồng
cầu, bạch cầu, và tiểu cầu. Theo
thể tích, hồng cầu chiếm khoảng
45% số tế bào máu, huyết tương
chiếm khoảng 54,3%, và bạch cầu chiếm
khoảng 0,7%.
Máu
và tim có mối liên kết chặt
chẽ. Mỗi phút, tim bơm khoảng 4,5 lít
máu đi khắp cơ thể. Mỗi
này một trái tim khỏe mạnh bơm
khoảng 2.000 lít máu đi qua 96.500
km của toàn bộ chiều dài hệ
thống mạch máu trong cơ thể. Quá
đỗi kỳ diệu! Máu,
tim, và sự sống như một tam-giác-sống,
không thể tách rời. Và chúng
ta vẫn nói: “Máu
chảy về tim”.
Về những người thân thuộc ruột
rà, người ta gọi là “họ
máu”. Máu là mối liên kết
tình cảm thân thiết nhất.
Máu
liên quan thập giá. Ngày xưa, thập
giá là nhục hình ghê rợn nhất
dành cho các tử tội. Chúa Giêsu
cũng đã phải chịu nhục hình
này vì người ta liệt Ngài vào
dạng tương tự “dân anh chị
khét tiếng” hoặc “tội phạm
nguy hiểm”. Nhưng với Đức Kitô,
thế cờ bị Ngài đảo ngược,
chính thập-giá-khổ-đau đó
lại trở thành“đòn bẩy”,
là đường dẫn tới vinh quang, là
lối vào ánh sáng, là vũ khí
để chiến thắng. Thập Giá trở
thành biểu tượng cứu độ và
là phương cách giải thoát.
Một
Saolê đã từng bách hại “tới
bến” đối với những ai yêu
mến Thánh Giá, nhưng sau khi ngã ngựa
và bị mù mắt thể lý, mắt
tâm linh sáng ra, rồi trở thành một
Phaolô “không giống ai” với niềm
ước mong: “Ước
chi tôi chẳng hãnh diện về điều
gì ngoài thập giá Đức Giêsu
Kitô” (Gl
6:14). THÁNH
GIÁ là cái GIÁ để NÊN
THÁNH. Thật vậy, vì đó là
điều kiện ắt có và đủ
mà Đức Giêsu Kitô đã xác
định: “Ai
không vác thập giá mình mà
theo Tôi thì không xứng với Tôi,
không thể làm môn đệ của
Tôi” (Mt
10:38; Lc 14:27).
Hơn
1.600 năm sau, ĐGM Pièrre Lambert de la Motte
(1624–1679, Hội Thừa Sai Pháp) cũng hóa
thành “dị nhân”, không giống
ai khi ngài quyết tâm chỉ yêu mến
Thánh Giá mà thôi, bằng chứng
là ngài đã lập Dòng Mến
Thánh Giá tại Việt Nam – bắt
đầu từ Hải Phòng (Bắc Việt).
Xưa cũng như nay, bất cứ ai thích
Thánh Giá đều bị coi là “ngược
đời” hoặc “điên loạn”.
Thế nhưng Đức Kitô đã khuyến
cáo chúng ta phải “mình ên vác
thập giá mà theo Ngài” (x. Mt
16:24). Thật là “căng” dữ nghen!
Quả thật, phải thực sự tin tưởng
và can đảm mới có thể vững
bước trên Con Đường Thập Giá
– miệt mài bước đi từng giây
phút chứ không chỉ trong thoáng chốc,
vài ngày hoặc vài tháng.
Thập
giá là dụng cụ để xử tử
phạm nhân mà người Phênixi đã
dùng trước tiên, sau đó người
Rôma cũng dùng, nhưng chỉ dùng
hình phạt này cho kẻ nô lệ, dân
bị trị, những người thấp hèn
và những kẻ phạm các tội nặng
nhất như trộm cướp, ít khi áp
dụng cho công dân Rôma. Nhà hùng
biện trứ danh Cicéron (Rôma) đã
mô tảthập giá là “cực
hình ghê rợn và độc ác
nhất” (crudelissimum et teterrimum supplicium).
Theo
nhiều nhà nghiên cứu Kinh Thánh, cây
Thánh Giá được làm bằng gỗ
tùng rất nặng, thanh dọc dài 4,5 m,
thanh ngang dài 2,5 m, cả Thập Giá nặng
khoảng 100 kg. Vác kéo lê thì giảm
sức nặng khoảng 30 kg. Như vậy,
Chúa Giêsu còn chịu sức nặng 70
kg đè trên thân xác đã yếu
ớt vì đòn vọt, vác khệ
nệ trên con đường dài 700 m,và
Ngài đãphải ngã quỵ 3
lần. Thông thường, khoảng giữa
thập giá có một miếng gỗ để
tội nhân tì mông vào cho dễ
đóng đinh, và đóng mỗi chân
một đinh. Ngày nay các nhà kỹ
thuật đã đưa miếng gỗ đó
xuống làm đế đỡ chân và
hai chân đóng chụm lại, đó
làvì tính mỹ thuật – tức
là để nhìn cho “đẹp mắt”
mà thôi.
Chúa
Giêsu chịu hàm oan và đau khổ
tột cùng trên Chặng Đàng Thánh
Giá. Cuộc đời mỗi Kitô hữu
cũng là Hành trình Thập Giá,
có rất nhiều thứ xấu xa trong mỗi
chúng ta để chúng ta phải cố
gắng “chết” vì yêu mến Đức
Kitô. Hành trình đó là hành
trình tử đạo liên lỉ, rất
cần ngước nhìn lên Chúa Giêsu
bị treo trên Thánh Giá như dân
Ít-ra-en xưa ngước nhìn lên
conrắn đồng để được chữa
lành (Ga 3:13-15).
Cuộc
đời Chúa Giêsu đầy những chữ
T kỳ diệu. Ngài ra đời trong hoàn
cảnh TÚNG THIẾU. Trình trạng khó
khăn và chật vật như thế còn
gọi là THIẾU THỐN, mà thiếu
trước hụt sau thì thật là TE TUA
và TƠI TẢ. Trong cuộc sống đời
thường, người ta cho cuộc đời
đó coi như là TIÊU TÙNG –
nói theo kiểu “thời tiết” thì
là… TOI (tức là chết).
Tuy
là Con nhà nghèo nhưng Cậu Giêsu
luôn sống THẬT THÀ, chuyện gì
cũng THẲNG THẮN. Sự thường thì
những người sống cương trực
như vậy thì hẳn là THUA THIỆT,
thậm chí người ta còn ghét hết
cỡ thợ mộc, bị người ta xa tránh
như chạy trốn bệnh dịch vậy.
Bằng
chứng minh nhiên là khi Chàng thanh niên
Giêsu bắt đầu sứ vụ công
khai, người ta tìm đủ cách bắt
bí hoặc gài bẫy. Thế nhưng Ngài
vẫn TIẾP TỤC giữ vững lập trường.
Đâu phải cứ đại đa số là
đúng, còn thiểu số là sai? Ngài
cứ là chính mình, chẳng ngán
ai, chẳng vị nể ai (Mt 22:16; Mc 12:14; 1 Pr 1:17).
Ai làm sai hoặc nói sai là Ngài
phang liền.
Đến
Giờ Linh của Chúa Giêsu, nhưng trước
khi bị bắt, Ngài đã thiết lập
Bí tích THÁNH THỂ làm Thần
lương nuôi dưỡng nhân loại
suốt cuộc lữ hành trần gian. Đêm
hôm đó, bản tính nhân loại
cũng khiến Ngài cảm thấy TÊ TÁI
lòng trong Vườn Cây Dầu (ngoại
ngữ gọi là Ghết-si-ma-ni): “Lạy
Cha, nếu có thể được, xin cho con
khỏi phải uống chén này. Tuy vậy,
xin đừng theo ý con, mà xin theo ý
Cha” (Mt
26:39). Thế nhưng Ngài cương quyết
TUÂN THỦ (tuân phục, vâng lời)
lệnh Chúa Cha, trước sau như một.
Chắc
hẳn ai nhìn thấy Ngài gục đầu
THAN THỞ với Cha bằng giọng nói THỐNG
THIẾT như thế thì cũng phải nẫu
cả ruột gan, cầm lòng chẳng đặng
và có thể bật khóc. Chúng ta
“vô phúc” nên không được
sống cùng thời với Ngài để
được nghe Ngài nói, nhìn Ngài
hành động, thấy Ngài ứng xử,
và chứng kiến giây phút Ngài
từ giã chúng ta.
Có
lần Ngài nói rõ: “Ngôn
sứ có bị rẻ rúng, thì cũng
chỉ là ở chính quê hương
mình, hay giữa đám bà con thân
thuộc, và trong gia đình mình mà
thôi” (Mc
6:4). Ngài nói quá THẬT THÀ nên
chúng ta cảm thấy THẤM THÍA. Chỉ
vì bị ghen ghét mà cuộc đời
Ngài thật là THẢM THƯƠNG. Ngài
bị bắt và bị hành hạ quá
nhiều nên THÂN THỂ Ngài quá đỗi
TIỀU TỤY, trông không còn ra dáng
người, nghĩa là rất TÀN TẠ.
Thế mà vẫn phải tự vác “giường”
của mình, té lên té xuống như
đứa trẻ chập chững bước đi
mà cứ “TUNG TĂNG”. Thở còn
ra hơi kia mà! Thế mà người ta
còn tàn nhẫn đè Ngài ra mà
đóng đinh chân tay Ngài vào THẬP
TỰ. Đau cả thể xác lẫn tinh thần,
thậm chí mấy thằng đệ tử
ruột cũng biến biệt tăm tích. Như
vậy, ĐAU chưa nhằm nhò
gì đâu, mà phải nói là
NHỤC. Còn gì nhục hơn khi chính
người tín cẩn nhất của mình
lại đành lòng bỏ rơi mình?
Thánh
Phaolô kết luận: “Chính
vì thế, Thiên Chúa đã siêu
tôn Người và tặng ban danh hiệu
trổi vượt trên muôn ngàn danh
hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh
Giêsu, cả trên trời dưới đất
và trong nơi âm phủ, muôn vật
phải bái quỳ; và để tôn
vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở
miệng tuyên xưng rằng: “Đức
Giêsu Kitô là Chúa” (Pl
2:9-11). Thập giá là vinh quang, là chiến
thắng, chứ không là thất bại như
loài người suy tưởng. Thi sĩ kiêm
kịch tác gia Pièrre Corneille (1606-1684, Pháp
quốc) đã có nhận xét thú
vị và rất đúng: “Chiến
đấu càng gian nan, khải hoàn càng
vinh quang”.
Thật vậy, cuộc sống cho chúng ta thấy
rằng không có niềm hạnh phúc
nào mà lại không có dấu vết
của sự đau khổ.
Từ
dinh Philatô tới đồi Can-vê là
một Hành Trình Máu, máu càng
lúc càng nhiều và thắm sắc
hơn. Thánh sử Gioan tường thuật:
“Hôm
đó là ngày áp lễ, người
Do Thái không muốn để xác chết
trên thập giá trong ngày sa-bát, mà
ngày sa-bát đó lại là ngày
lễ lớn. Vì thế họ xin ông
Philatô cho đánh giập ống chân
các người bị đóng đinh và
lấy xác xuống. Quân lính đến,
đánh giập ống chân người thứ
nhất và người thứ hai cùng bị
đóng đinh với Đức Giêsu. Khi
đến gần Đức Giêsu và thấy
Người đã chết, họ không đánh
giập ống chân Người. Nhưng một
người lính lấy giáo đâm vào
cạnh sườn Người. Tức thì MÁU
cùng NƯỚC chảy ra”
(Ga
19:31-34). Máu là biểu tượng và
là màu sắc của lòng thương
xót.
Chính
Thánh Gioan đã mục kích sở thị
sự kiện này và làm chứng, lời
chứng này hoàn toàn xác thực.
Thánh Gioan biết mình nói sự thật
để cho mọi người cùng tin. Cuối
cùng, người ta cũng phải công
nhận: “Họ
sẽ nhìn lên Đấng họ đã
đâm thâu” (Ga
19:37).
Kính
lạy Máu và Nước đã tuôn
trào từ Thánh Tâm Chúa Giêsu,
xin thương xót chúng con và toàn
thế giới. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
|