HIỆP SỐNG
TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 5 MÙA
CHAY A
Ed 37,12-14 ; Rm 8.8-11
; Ga 11,3-45
TRỞ THÀNH NGÔN SỨ CỦA SỰ
SỐNG VÀ TÌNH THƯƠNG
I.
HỌC LỜI CHÚA
1. TIN
MỪNG: Ga 11,3-45
(1)
Có một người bị đau nặng, tên
là La-da-rô, quê ở Bê-ta-ni-a, làng của hai
chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a. (2) Cô Ma-ri-a là
người sau này sẽ xức dầu thơm
cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người.
Anh La-da-rô, người bị đau nặng, là
em của cô. (3) Hai cô cho người đến nói
với Đức Giê-su: “Thưa Thầy,
người Thầy thương mến đang bị
đau nặng”. (4) Nghe vậy, Đức Giê-su
bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết
đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh
quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên
Chúa được tôn vinh”. (5) Đức Giê-su
quý mến cô Mác-ta, cùng hai người em
là Ma-ri-a và anh La-da-rô. (6) Tuy nhiên, sau khi
được tin anh La-da-rô lâm bệnh,
Người còn lưu lại thêm hai ngày
tại nơi đang ở. (7) Rồi sau đó,
Người nói với các môn đệ:
“Nào, chúng ta cùng trở lại miền
Giu-đê !”. (8) Các môn đệ nói: “Thưa
Thầy, mới đây người Do thái
tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy
lại còn đến đó sao ?” (9) Đức
Giê-su trả lời: “Ban ngày chẳng có
mười hai giờ đó sao ? Ai đi ban
ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng
của thế gian này. (10) Còn ai đi ban đêm,
thì vấp ngã vì không có ánh sáng
nơi mình !”. (11) Người nói những
lời này, sau đó Người lại
bảo: “La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên
giấc. Tuy vậy, Thầy đi đánh thức
anh ấy đây”. (12) Các môn đệ nói
với Người: “Thưa Thầy, nếu anh
ấy yên giấc được, anh ấy sẽ
khỏe lại”. (13) Đức Giê-su nói về
cái chết của anh La-da-rô, còn họ
tưởng Người nói về giấc
ngủ thường. (14) Bấy giờ
Người mới nói rõ: “La-da-rô
đã chết”. (15) Thầy mừng cho anh em, vì
Thầy đã không có mặt ở
đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta
đến với anh ấy”. (16) Ông Tô-ma, gọi là
Đi-đy-mô, nói với các bạn
đồng môn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta
cùng đi để cùng chết với
Thầy !”. (17) Khi đến nơi, Đức Giê-su
thấy anh La-da-rô đã chôn trong mồ
được bốn ngày rồi. (18) Bê-ta-ni-a
cách Giê-ru-sa-lem không đầy ba cây số. (19) Nhiều
người Do thái đến chia buồn
với hai cô Mác-ta và Ma-ri-a, vì em các cô
mới qua đời. (20) Vừa
được tin Đức Giê-su đến, cô
Mác-ta liền ra đón Người. Còn cô
Ma-ri-a thì ngồi ở nhà. (21) Cô Mác-ta
nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy,
nếu có Thầy ở đây, em con đã không
chết. (22) Nhưng bây giờ con biết: “Bất
cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên
Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. (23)
Đức Giê-su nói: “Em chị sẽ sống
lại !” (24) Cô Mác-ta thưa: “Con biết em con sẽ
sống lại, khi kẻ chết sống lại trong
ngày sau hết”. (25) Đức Giê-su liền
phán: “Chính Thầy là sự sống lại
và là sự sống. Ai tin vào Thầy,
thì dù đã chết, cũng sẽ
được sống. (26) Ai sống và tin vào
Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị
có tin thế không ?” (27) Cô Mác-ta đáp: “Thưa
Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức
Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến
thế gian”. (28) Nói xong, cô đi gọi em là Ma-ri-a,
và nói nhỏ: “Thầy đến rồi, Thầy
gọi em đấy !”. (29) Nghe vậy, cô Ma-ri-a vội
đứng lên và đến với
Đức Giê-su. (30) Lúc đó, Người
chưa vào làng, nhưng vẫn còn ở
chỗ cô Mác-ta đã ra đón
Người. (31) Những người Do
thái đang ở trong nhà với cô Ma-ri-a
để chia buồn, thấy cô vội vã
đứng dậy đi ra, liền đi theo,
tưởng rằng cô ra mộ khóc em. (32) Khi
đến gần Đức Giê-su, cô Ma-ri-a vừa
thấy Người, liền phủ phục
dưới chân và nói: “Thưa Thầy, nếu
có Thầy ở đây, em con đã không
chết”. (33) Thấy cô khóc, và những
người Do thái đi với cô cũng khóc,
Đức Giê-su thổn thức trong lòng và
xao xuyến. (34) Người hỏi: “Các
người để xác anh ấy ở
đâu ?” Họ trả lời: “Thưa Thầy,
mời Thầy đến mà xem”. (35)
Đức Giê-su liền khóc. (36) Người Do
thái mới nói: “Kìa xem ! Ông ta thương
anh La-da-rô biết mấy !” (37) Có vài
người trong nhóm họ nói: “Ông ta
đã mở mắt cho người mù,
lại không thể cho anh ấy khỏi chết ư ?” (38)
Đức Giê-su thổn thức trong lòng.
Người đi tới mộ. Ngôi mộ
đó là một cái hang có phiến
đá đậy lại. (39) Đức Giê-su
nói: “Đem phiến đá này đi”. Cô
Mác-ta là chị người chết liền
nói: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì
em con ở trong mồ đã được
bốn ngày”. (40) Đức Giê-su bảo: “Nào
Thầy đã chẳng nói với chị
rằng nếu chị tin, chị sẽ
được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao ?”.
(41) Rồi người ta đem phiến đá
đi. Đức Giê-su ngước mắt lên
và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha
đã nhậm lời con. (42) Phần con, con
biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng
vì dân chúng đứng quanh đây, nên con
đã nói để họ tin là Cha đã
sai con”. (43) Nói xong, Người kêu lớn
tiếng: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ !”. (44)
Người chết liền ra, chân tay còn quấn
vải, và mặt còn phủ khăn,
Đức Giê-su bảo: “Cởi khăn và
vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi”.
Trong số những người Do thái
đến thăm cô Ma-ri-a và được
chứng kiến việc Đức Giê-su làm,
có nhiều kẻ đã tin vào
Người.
2. Ý
CHÍNH:
Đức Giê-su đến làng
Bê-ta-ni-a thì La-da-rô đã chết và chôn
được bốn ngày. Gặp hai bà
Mác-ta và Ma-ri-a là chị người
chết đang khóc thương em, Đức Giê-su
đã trấn an họ rằng: “Chính Thầy
là sự sống lại và là sự
sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã
chết cũng sẽ được sống” (25). Khi
ra thăm mộ của La-da-rô, Đức Giê-su
đã cầu nguyện với Chúa Cha rồi
truyền cho La-da-rô ra khỏi mồ (43) và
người chết liền chỗi dậy đi ra
ngoài. Qua phép lạ phục sinh La-da-rô này,
Đức Giê-su đã mặc khải
Người chính là Đấng Thiên Sai Con Thiên
Chúa hằng sống. Người sẽ ban
sự sống và sự sống lại muôn
đời cho những ai đặt trọn
niềm tin nơi Người. Mỗi tín hữu
phải trở thành ngôn sứ của sự sống.
3.
CHÚ THÍCH:
- C 1-5: + La-da-rô: là tên của người
bạn thân với Đức Giê-su, ở
làng Bê-ta-ni-a (x. Ga 11,3). Ngoài La-da-rô này, cũng
còn một người ăn xin tên là La-da-rô
trong Tin Mừng Lu-ca (x. Lc 16,20). + Bê-ta-ni-a: Là
một làng nằm ở phía Đông núi
Cây Dầu, cách Giê-ru-sa-lem khoảng ba cây số (x. Ga 11,18).
Đức Giê-su thường đến trọ
tại làng này mỗi khi có dịp lên
Giê-ru-sa-lem. Ngoài ra, còn một Bê-ta-ni-a khác
là nơi Đức Giê-su chịu phép
rửa (x. Lc 16,20). + Mác-ta: là chị
lớn trong ba chị em. Bà có tính năng
nổ hướng ngoại thể hiện khi
đón tiếp Đức Giê-su (x. Lc 10,38-42). +
Ma-ri-a: là em của Mác-ta, có tính
trầm lặng hướng nội, sẵn
sàng hy sinh bình dầu thơm quý giá
để xức chân Người (x. Ga 12,1-8). Theo
phần lớn các nhà chú giải Thánh Kinh: Bà Ma-ri-a này không
phải là người đàn bà tội
lỗi (x. Lc 7,36-50), không phải là người
phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8,3-11), cũng không
phải Ma-ri-a Ma-đa-lê-na được trừ
khỏi bảy quỷ ám (x. Lc 8,2).
- C 6-16: + Mới đây người
Do thái tìm cách ném đá Thầy: Các môn đệ mang tâm trạng
sợ hãi vì ý thức nguy hiểm:
Thầy có thể bị kẻ thù giết hại tại
Giê-ru-sa-lem. + Ban ngày chẳng có mười hai
giờ đó sao ?: Đức Giê-su
quyết tuân theo chương trình Chúa Cha đã
truyền. + La-da-rô, bạn của chúng ta đang yên
giấc. Tuy vậy, Thầy đi đánh thức
anh ấy đây: Đức Giê-su dùng
chữ “ngủ” để ám chỉ cái
chết, giống như trường hợp
của con gái ông Gia-ia (x. Mc 5,39). Thánh Phao-lô cũng
coi cái chết chỉ là một giấc ngủ (x.
1 Tx 4,14), là một bước phải
vượt qua đến sự sống lại (x.
Ep 5,14). + Thầy mừng cho anh em, vì Thầy
đã không có mặt ở đó,
để anh em tin: Đức Giê-su mừng
vì môn đệ sắp được dịp
chứng kiến Người truyền cho La-da-rô
sống lại, để các ông vững tin nơi
Người.
- C 17-27:
+ Khi đến nơi,
Đức Giê-su thấy anh La-da-rô đã chôn trong
mồ được bốn ngày rồi: Theo phong tục người Do
thái thì người chết thường
được chôn ngay trong ngày vừa chết
(x. Cv 5,6). Người Do thái tin rằng trong ba
ngày đầu, hồn vía người chết
còn lảng vảng gần xác chết. Sang ngày
thứ tư khi xác thối rữa, nó
mới tan đi. Con số bốn ngày ở
đây như muốn nói La-da-rô đã chết
thật sự. + Con biết em con sẽ sống
lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau
hết: Thời Cựu Ước,
nhiều người tin có sự kẻ
chết sống lại (x Đn 12,2-3; 2 Mcb 7,23). Đến
thời Đức Giê-su, nhóm Pha-ri-sêu cũng
tin như vậy, nhưng nhóm Xa-đốc thì không
tin (x Cv 23,8). Riêng Mác-ta tuy tin kẻ chết sẽ
sống lại trong ngày tận thế như nhóm
Pha-ri-sêu, nhưng vẫn muốn Đức Giê-su làm phép
lạ cho em được sống lại ngay lúc này. +
Chính Thầy là sự sống lại và
là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì
dù đã chết, cũng sẽ
được sống: Đức Giê-su
là sự sống phát xuất từ
Chúa Cha (x. Ga 5,26). Người làm cho
những kẻ tin Người được
sống đời đời (x. Ga 5,24-25).
Người cũng sẽ ban cho những kẻ tin
được sống lại vào ngày cánh
chung, dù xác của họ có bị tiêu hủy
cũng sẽ được sống lại (x. Ga 5,28-29). + Con
vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên
Chúa, Đấng phải đến thế gian:
Mác-ta tuyên xưng Đức Giê-su chính là
Đấng Thiên Sai (x. Ga 1,19).
- C 28-37: + Thấy cô khóc, và
những người Do thái đi với cô
cũng khóc, Đức Giê-su thổn thức
trong lòng và xao xuyến: Theo thói tục của
người Do thái, khi có khách đến
viếng xác, thì người nhà bật
khóc to, và khách cũng tự nhiên phát
khóc lên theo.
- C 38-44: + Đức Giê-su thổn
thức trong lòng:
Trước sự đau khổ của tang gia,
Đức Giê-su có thái độ cảm thông
đầy tình người. Nhưng thực ra
nguyên nhân sâu xa khiến Đức Giê-su khóc một
phần còn vì sự cứng lòng tin
của những người Do thái hiện diện (37)
và vì niềm tin nửa vời của hai
chị em Mác-ta và Ma-ri-a (39). + Đem phiến
đá này đi: Phần mộ của
người Do thái giàu có thường
khoét vào núi đá. Sau khi tắm
rửa, xác chết được xức
thuốc thơm, cột lại bằng giây băng vài và
phủ khăn liệm, đưa vào mồ chôn cất
rồi lấp ngòai cửa mồ bằng một
tảng đá lớn, như hai môn đệ an
táng Đức Giê-su sau này (x Ga 19,40-42). +
Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con
ở trong mồ đã được bốn
ngày: Tuy Mác-ta vừa tuyên xưng
đức tin, nhưng vẫn nghi ngờ Ngừơi
có thể làm cho La-da-rô sống lại. + Chị sẽ
được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao ?:
Vinh quang ở đây là quyền năng Thiên
Chúa tỏ hiện qua việc người
sắp cho La-da-rô từ cõi chết sống
lại. + Đức Giê-su ngước mắt lên
và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha
đã nhậm lời con":
Người Do thái khi cầu nguyện thì quay
mặt về hướng Đền thờ
Giê-ru-sa-lem. Còn ở đây Đức Giê-su
lại ngước nhìn lên trời. Đây
là lối cầu nguyện của các Ki-tô hữu
sau này. + Người kêu lớn tiếng: “Anh La-da-rô,
hãy ra khỏi mồ !": Đức Giê-su ra
lệnh cho người chết sống lại.
Điều đó cho thấy Người có
quyền trên sự chết. + Cởi khăn và vải
cho anh ấy, rồi để anh ấy đi:
La-da-rô sau khi sống lại phải được
người khác cởi khăn và vải
liệm. Trái lại, Đức Giê-su sau khi phục sinh,
những băng vải vẫn còn để
lại trong mồ và khăn che đầu
Người cũng được cuốn lại
và xếp để riêng ra một nơi (x. Ga 20,5-7).
4. CÂU
HỎI:
1) Ma-ri-a
Bê-ta-ni-a có phải là người đàn
bà tội lỗi, người phụ nữ
ngoại tình sắp bị ném đá hay
bà Ma-ri-a Ma-đa-le-na hay không ? 2) Đức Giê-su
nói La-da-rô đang yên giấc có ý ám chỉ
điều gì ? Hai trường hợp khác
tương tự là những trường
hợp nào ? 3) Theo phong tục Do Thái thì
người chết được chôn khi nào ?
Ở đây việc La-da-rô được chôn
bốn ngày rồi mang ý nghĩa gì ? 4)
Thời Đức Giê-su, niềm tin về việc
kẻ chết sống lại giữa hai phái
Xa-đốc và Biệt phái khác nhau ra sao ? 5)
Tại sao Đức Giê-su lại thổn thức
trong lòng và xao xuyến khi thấy Mác-ta và
người đi theo cô khóc ? 6) Khi nói:
"Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con
ở trong mồ đã được bốn
ngày" Mác-ta có hòan tòan tin vào quyền
năng phục sinh kẻ chết của Đức Giê-su
không ? 7) Ngày nay các tín hữu hướng về
đâu khi cầu nguyện ? Tại sao ? 8) Tình trạng
của La-da-rô sau khi sống lại khác với
tình trạng sống lại của Đức Giê-su
thế nào ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1.
LỜI CHÚA: “Chính Thầy là sự
sống lại và là sự sống. Ai tin
vào Thầy, thì dù đã chết cũng
sẽ được sống” (Ga 11,25).
2. CÂU
CHUYỆN:
1) VỀ
MỘT CON NGƯỜI ĐƯỢC SỐNG LẠI
VỀ PHẦN LINH HỒN:
SI-TA
ĐE-LI vốn là một kẻ chuyên quậy phá
kẻ khác. Anh đã nhiều lần vào tù
ra khám vì tội phá phách cướp
giựt. Trong phiên tòa lần thứ năm, quan
tòa đã phải tuyên bố như sau: “Có
phạt anh thêm nữa cũng vô ích ! Nhưng
chúng tôi vẫn phải cách ly anh. Chúng tôi
đã làm hết cách. Quả thật chúng
tôi đã hoàn toàn thất vọng về anh”.
Vào tù lần này, ĐE-LI lại ngựa
quen đường cũ: có những hành
vi vô kỷ luật và đàn áp bạn tù
yếu thế hơn anh, nên anh đã bị biệt
giam trong hai tuần lễ. Nhưng một phép lạ
đã xảy ra: Khi phải nằm thu mình trong
căn hầm chật hẹp tăm tối, nằm trên
nền đá ẩm mốc hôi hám, ĐE-LI
đã có dịp suy nghĩ và nhớ lại
những lỗi lầm đã phạm. Vốn
là con một trong gia đình giàu có,
được cha mẹ cho đi học, nhưng anh
lại lười biếng và ăn cắp
tiền của cha mẹ rồi sau đó bỏ
nhà đi hoang. Từng được nhà
trường đánh giá là một học
sinh thông minh giàu sáng kiến, anh chỉ có
thói xấu là ham vui. Vậy tại sao anh lại
không sử dụng những tài năng
đó để làm việc tốt hữu
ích cho tha nhân, mà lại bỏ nhà đi hoang và
phạm tội đàn áp bóc lột kẻ khác ? Rồi sau đó
anh bắt đầu có những giấc mơ
đẹp về Đức Giê-su, mà anh đã
từng học biết khi còn theo học
lớp giáo lý vỡ lòng.
Dường như anh thấy Đức Giê-su
đang âu yếm nhìn anh và mời anh hãy đi
theo Người. Rồi hình ảnh những
người từng bị anh gây thương
tích lần lượt lướt qua tâm
trí anh. Tự nhiên anh cảm thấy một
tình cảm dào dạt đối với họ.
Chính tình thương ấy đã tắm
mát và chữa lành những vết
thương trong tâm hồn sơ cứng của anh.
Cảm nghiệm ấy đã dần dần biến
đổi anh nên một người mới
đầy tràn tình yêu của Đức Giê-su.
Sau hai tuần lễ, ĐE-LI được ra khỏi
ngục biệt giam và trở lại phòng giam
thường phạm. Anh không còn thái độ bắt
nạt bạn tù, trái lại còn sẵn
sàng bênh vực những kẻ thân yếu
thế cô. Anh xin cha tuyên úy nhà giam theo học
lớp Thánh Kinh hằng tuần. Anh trở
thành người học trò chăm chỉ
và xuất sắc nhất trong đám bạn
tù. Mấy năm sau, khi được mãn
hạn tù, anh đã trở thành chủ
tịch hội “Cải cách chế độ lao
tù”. Khi nói về anh, cha tuyên úy nhà lao
đã nói: “Si-ta Đe-li là một bằng
chứng sống động nhất về một
phép lạ đã xảy ra: Không những anh
là một con người tội lỗi
được ơn sám hối, mà còn là
một tạo thành mới, một tín
hữu tốt lành thánh thiện và là
môn đệ đích thực của Chúa Giê-su”.
2) TÁC
HẠI CỦA THÓI ƯA TRÌ HOÃN “HÃY ĐỢI ĐẤY”:
Pháp
quan Archais ở Thebea đang ngồi uống rượu
với một số đông dũng sĩ của mình,
bỗng có một sứ giả bước vào mang cho ông
một bức thư báo cáo về một âm mưu sát
hại ông. Thay vì mở ngay bao thư ra đọc, ông nhét
ngay vào trong túi và nói:
-
Để mai hãy hay.
Và
qua ngày mai thì ông bị giết chết. Trước khi
bức thư bị khui ra, thì cả chính phủ đã bị
bắt sạch không thoát một ai.
Nếu
ngày Chúa lại đến không ai biết trước thì
mọi người đang sống phải chuẩn bị
sẵn sàng cho ngày giờ đó. Ảo tưởng nguy
hiểm nhất là ảo tưởng cho rằng, mình còn sống
lâu, còn có đủ thời gian để kịp hồi tâm
sám hối trước khi chết.
3) CẦN
CAN ĐẢM ĐỂ SẴN SÀNG ĐÁP LẠI TIẾNG
CHÚA:
Một
linh mục tuyên úy đã thuật lại câu trả lời
đầy xúc động sau đây của một thủy
thủ bị bệnh hiểm nghèo sắp chết. Anh là
một thủy thủ rất đạo đức. Sáng
hôm đó, anh đã nhận Thánh Thể như của ăn
đàng. Buổi chiều, khi linh mục đến gặp
và nhận thấy anh rất yếu, liền hỏi:
-
Con đã sẵn sàng cho chuyến đi quan trọng sắp
tới chưa?
-
Thưa Cha, hoàn toàn sẵn sàng!
-
Con không sợ ư?
-
Sợ ư? Tại sao con lại phải sợ?
Và
đặt tay lên ngực, nơi anh đã rước Chúa
đến buổi sáng, anh nói thêm:
-
Thuyền trưởng đã xuống thuyền, vậy con
còn sợ gì nữa chứ?
4) HIỆU
QUẢ ĐÁNG NGỜ CỦA THUỐC TRƯỜNG SINH:
Vào
thời chiến quốc, có người dâng lên Sở vương
một viên thuốc trường sinh. Ông ta bưng viên thuốc
này vào hoàng cung. Quan cảnh vệ gác cổng lliền
hỏi: “Thuốc này có uống được không ?” Người
kia đáp : “Uống được”.
Lập
tức viên quan cảnh vệ liền mở viên thuốc quý
ra, cầm cho vào miệng nuốt đi trước sự
ngỡ ngàng của người dâng thuốc. Câu chuyện được
báo cáo lên vua Sở. Vua liền truyền tống giam quan cảnh
vệ vào ngục vì tội “khi quân” và xử tội chết.
Viên
quan liền kêu oan rằng: “Hạ thần đã hỏi
người dâng thuốc và ông ta nói: ”Thuốc có thể uống
được” nên thần mới dám uống. Thế
là hạ thần vô tội mà kẻ có lỗi chính là người
dâng thuốc kia. Hơn nữa, người dâng thuốc lại
nói đó là thuốc trường sinh nghĩa là ai uống
vào sẽ được trường sinh bất tử.
Thế mà thần uống vào lại sắp phải
chết. Như vậy đây là “thuốc tử” chứ sao
gọi là “thuốc bất tử” được? Điều
đó chứng tỏ người dâng thuốc là kẻ nói
dối mà sao bệ hạ lại tin hắn?
Vua
nghe quan cảnh vệ nói có lý, liền tha không giết nữa.
5) BAO
NHIÊU TIỀN CŨNG KHÔNG MUA ĐƯỢC THÊM MỘT NGÀY
SỐNG:
Có
một người rất keo kiệt, lúc nào cũng
chắt bóp chẳng dám ăn tiêu gì. Tích cóp cả
đời, anh ta để dành được cả
một gia tài lớn.
Không
ngờ một ngày, Thần Chết đột nhiên xuất
hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới
nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì
từ số tiền kia. Anh ta bèn nài nỉ:
-
Tôi chia một phần ba tài sản của tôi cho Ngài,
chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi.
-
Không được. – Thần Chết lắc đầu.
-
Vậy tôi xin đưa một nửa để xin cho tôi sống
thêm nửa năm nữa, được không? – Anh ta
tiếp tục van xin.
-
Không được. – Thần Chết vẫn không
đồng ý.
Anh
ta vội nói:
-
Vậy… tôi xin giao hết của cải cho Ngài. Ngài cho tôi
một ngày thôi, có được không?
-
Không được. – Thần Chết vừa nói, vừa
giơ cao chiếc lưỡi hái trên tay.
Người
đàn ông tuyệt vọng cầu xin Thần Chết
lần cuối:
-
Thế thì Ngài cho tôi một phút để viết chúc
thư vậy.
Lần
này, Thần Chết gật đầu. Anh run rẩy
viết một dòng cảnh báo:
“Xin mọi người hãy nhớ điều này: Bao nhiêu
tiền cũng không mua nổi thời gian sống thêm một
ngày”.
Hóa ra ở đời điều quan
trọng không phải là tiền mà là chúng ta có biết
sử dụng thời gian có ý nghĩa hay không? Có tiền mà
sống vô nghĩa thì thật uổng phí. Thế nên, mỗi
người phải biết trân trọng thời gian. Ngay
khi còn sống hãy luôn phụng sự Chúa và phục vụ
tha nhân. Đừng để uổng phí cuộc
đời trong những đam mê “danh, lợi, thú” chỉ
mang lại hạnh phúc bọt bèo chóng qua. Thời gian trôi
qua sẽ không trở lại. Hãy sống sao để
được hạnh phúc Nước Trời đời
sau.
3. SUY
NIỆM:
1. VỀ
MẦU NHIỆM PHỤC SINH KẺ CHẾT:
Dùng
quyền năng siêu nhiên để làm cho người
bệnh nan y được khỏi bệnh thì nhiều
người đã làm được, nhưng làm cho
người đã chết được sống lại
thì chỉ những người được Chúa ban ơn
đặc biệt mới có thể làm được. Chẳng
hạn:
Thời
Cựu Ước: Ngôn sứ Ê-li-a đã làm cho con trai
của bà góa ở Sa-rép-ta sống lại (x. 1 V 17,17-24); Ngôn
sứ Ê-li-sa cũng phục sinh cho con trai của bà Su-nêm (x.
2 V 4,32-37).
Đến
thời Tân Ước, tông đồ Phê-rô đã làm cho bà
Ta-bi-tha đã chết được sống lại (x. Cv
9,39-42). Riêng Ðức Giê-su đã phục sinh kẻ chết ít
nhất 3 lần: Cho con trai bà góa ở thành Na-in mới
chết đang đem đi chôn sống lại (x. Lc
7,11-15); Cho con gái ông trưởng hội đường mới
chết đang nằm trên giường được
trỗi dậy (x. Mt 9,18-26); Cho anh bạn thân La-da-rô
chết chôn trong mồ bốn ngày được sống
lại ra khỏi mồ (x. Ga 11,34-45). Ba người này sau
khi sống lại cũng chỉ sống thêm được
một thời gian rồi lại phải chết. Sự
sống lại của họ nhằm tiên báo việc Ðức
Giê-su sau này sẽ chiến thắng thần chết.
Người sẽ trải qua cái chết và đến ngày
thứ ba sẽ từ cõi chết sống lại (x. Ga
20,1-10). Sự phục sinh của Người là bằng
chứng bảo đảm cho niềm tin vào mầu
nhiệm kẻ chết sống lại trong ngày tận
thế như thánh Phao-lô đã khẳng định: “Nếu
Ðức Kitô không sống lại, thì niềm tin và lời rao
giảng của chúng tôi là vô ích” (1 Cr 15,14), và
sự phục sinh của Người chứng tỏ Người
thực là Con Thiên Chúa hằng sống.
2. ĐỨC
GIÊ-SU, CON THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI CÓ QUYỀN TRÊN SỰ
CHẾT:
Tin Mừng Chúa
Nhật hôm nay cho thấy: Ðức Giê-su vừa là Thiên
Chúa vừa là người phàm; Người chính là
Đấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã tiên báo sẽ
đến và dân Do thái trông mong.
-
Là người phàm, nên Đức Giê-su đã xúc động
thổn thức và khóc thương người bạn thân khi
đứng trước mộ của anh (c 33-35), đến
nỗi người ta phải thốt lên: “Kìa xem! Ông ta
thương La-da-rô biết mấy!” (c 36). Nhưng là
Thiên Chúa, Đức Giê-su đã phán một lời khiến
La-da-rô chết 4 ngày được trỗi dậy và ra
khỏi mồ. Vì Người “là sự sống lại
và là sự sống. Ai tin vào Người thì
dù đã chết, cũng sẽ
được sống. Ai sống và tin vào Người
sẽ không bao giờ phải chết” (x. Ga 11,25-26).
+
Khi mở cửa mộ của La-da-rô, Đức Giê-su đã
mở cánh cửa sự sống, phá tan sào huyệt của tử
thần: Khi truyền cởi những dải băng
liệm cuốn quanh người La-da-rô, Người
giải phóng anh khỏi quyền lực của tử
thần.
+
Khi mở cửa mộ của La-da-rô, Đức Giê-su cũng
mở cánh cửa đức tin của Mác-ta: Trước
đó, đức tin của Mác-ta chỉ mới là thứ
đức tin chung chung giống như đa số người
Do thái đương thời. Nhưng sau khi chứng
kiến La-darô sống lại, đức tin của bà đã
trở thành sống động vững chắc.
Trước đó, nhiều người Do thái vẫn chưa
tin Đức Giê-su. Nhưng sau khi chứng kiến La-da-rô từ
cõi chết sống lại, họ đã đạt
đến đức tin vào Đức Giê-su. Chính khi tảng
đá lấp cửa mộ La-da-rô mở ra cũng phá tan tảng
đá nghi ngờ, dẫn họ tới đức tin Đức
Giê-su là Con Thiên Chúa.
+
Khi mở cửa mộ của La-da-rô, Đức Giê-su
cũng mở cánh cửa niềm vui: Sự chết của
La-da-rô gieo tang tóc u buồn cho hai bà chị Mác-ta và Ma-ri-a. Tiếng
khóc của hai người này đã khiến Đức Giê-su
cảm động và không ngăn được dòng
lệ. Nhưng khi La-da-rô được Người cho
sống lại, đám tang biến thành đám hội, lời
phân ưu trở thành lời chúc mừng.
+
Khi mở cửa mộ của La-da-rô, Đức Giê-su
cũng mở cánh cửa niềm hy vọng: Từ nay nhân
loại hy vọng Đức Giê-su là “sự sống
lại và là sự sống”, cũng sẽ làm cho những ai
tin vào Người được tham phần vào sự sống
đời đời với Người như
Người đã nói: “Chính
Thầy là sự sống lại và là
sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù
đã chết, cũng sẽ được
sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao
giờ phải chết” (Ga 11,25-26).
3. MUỐN
ĐƯỢC THAM PHẦN SỰ SỐNG ĐỜI
ĐỜI PHẢI BIẾT YÊU THƯƠNG:
-
Đức Giê-su không chỉ yêu bằng thứ tình yêu
thần linh, mà còn yêu thương bằng tình cảm nhân
loại. Tình yêu của Người là thứ tình yêu tột
đỉnh như Tin Mừng Gio-an viết: “Người
vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình
còn ở thế gian, và Người yêu thương họ
đến cùng!” (Ga 13,1b). Yêu đến cùng là yêu
tột cùng, đến nỗi sẵn sàng hy sinh mạng
sống vì người mình yêu, như lời Đức
Giê-su: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình
thương của người đã hy sinh tính mạng vì
bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
-
Tình yêu của Ðức Giê-su đối
với anh bạn thân La-da-rô được thể hiện
qua thái độ xúc động khi trước mộ
của anh. Tình yêu tự nhiên được thể
hiện qua ánh mắt trìu mến, lời nói cử chỉ
dịu dàng và thái độ quảng đại như bà mẹ
hiền nựng đứa con thơ, như Thiên Chúa đã
yêu thương con cái loài người chúng ta, đã sai Con
Một đến chịu chết trên thập giá
để đền tội thay cho chúng ta và đã từ
cõi chết sống lại để cứu sống chúng ta (x.
1 Ga 4,9).
4. TRỞ
NÊN NGÔN SỨ CỦA SỰ SỐNG BẰNG VIỆC
THỰC THI GIỚI RĂN YÊU THƯƠNG:
-
Trong
sứ điệp ngày Giới Trẻ Thế
Giới năm 1996, Đức Thánh Cha Gio-an
Phao-lô II đã khuyên các bạn trẻ như sau: “Hãy
trở nên những ngôn sứ của sự
sống và tình thương, những ngôn
sứ của niềm vui. Hiện
nay tuy nhân loại ngày càng văn minh hơn. Nhưng
vẫn có nhiều bóng tối của sự
chết như: chiến tranh, đói kém, phá
thai, tự tử, si-đa, ám sát,
đặt mìn, tai nạn giao thông… Những
cái chết về thể xác phản ảnh
một cái chết nguy hiểm hơn. Đó là
cái chết của Tình Yêu trong lòng con
người ! Cái chết ấy sẽ thắng
thế khi con người sống buông thả, chán
chường và khép kín trong sự
ích kỷ. Nhưng chúng ta có Đức Giê-su
là “Sự Sống Lại và là Sự
Sống”. Một khi chúng ta liên kết mật thiết
với Đức Giê-su, chúng ta cũng có
thể thông truyền sự sống và niềm vui
cho thế giới, giống như Đức Giê-su
xưa đã trả lại sự sống cho
La-da-rô và lau khô giọt lệ cho hai chị em Mát-ta
và Ma-ri-a… Ki-tô hữu phải sẵn sàng lao
tới bất cứ nơi đâu có
những anh em cần được giúp
đỡ, những nơi có những
giọt nước mắt cần được
lau khô, những nơi có những lời
cầu cứu đang mong chờ
được đáp ứng”.
-
Mỗi ngày chúng ta cần tích cực chuẩn bị cho
cuộc sống mai sau, bằng một nếp sống bác ái
cụ thể như: "Vui với người vui và khóc
với người khóc”; bằng việc quan tâm thăm
viếng, an ủi động viên, quảng đại chia
sẻ tinh thần vật chất và khiêm tốn phục
vụ những người nghèo khổ bệnh tật và
bất hạnh… Yêu thương không phải bằng môi
miệng nhưng bằng sự quan tâm tới người
đau khổ nghèo đói bệnh tật bất hạnh
đang sống ngay bên và sẵn sàng đáp ứng các nhu
cầu, phục vụ họ như phục vụ chính
Đức Giê-su bị bỏ rơi.
4.
THẢO LUẬN:
Chúng ta cần phải
làm gì để trở thành Ngôn Sứ
của Sự Sống, sẵn sàng chia sẻ tình
thương của Chúa cho đồng bào Việt
Nam, cho những người bệnh tật đau
khổ đang sống chung quanh chúng ta ?
5.
NGUYỆN CẦU:
-
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay chúng con chưa chết nên
không xin Chúa cho sống lại về phần xác, nhưng
chúng con xin Chúa ban cho chúng con sống lại
thật về phần linh hồn: để không
những chúng con chiến thắng kẻ thù
cuối cùng là sự chết, mà còn
tiêu diệt những nguyên nhân dẫn tới cái
chết như: thói tham lam tiền bạc, ham mê
rượu chè, chích hút và những
đam mê bất chính khác… Xin cho chúng con
thắng vượt tất cả những
gì hủy hoại sự sống thiêng liêng trong chúng
con như: sự thất vọng, buồn chán,
sống không lý tưởng…
-
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đổ tràn ngập tâm hồn chúng
con Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin
Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con
chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin
Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những
người chúng con tiếp xúc cảm nhận
được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin
cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải
bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống
chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của
Chúa (Mẹ Têrêxa Calcutta).
X)
HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM
LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN
VINH - HHTM
|