Về “cái biết”
Trong Tin Mừng Ga đoạn 9, mười câu từ 24-34, thấy diễn ra một
cuộc đối chọi giữa hai ‘cái biết’:
một của nhóm chức quyền Do thái, một của anh mù.
a) “Chúng ta biết
rằng tên đó (Chúa Giêsu)
là một đứa tội lỗi” (c.24).
aa) “Ông ấy là
người tội lỗi ư? Tôi không biết.
Một điều tôi biết được là: tôi đã
mù, và rày
tôi thấy được” (c.25).
b) “Chúng ta biết
Thiên Chúa đã phán với
Môsê (và truyền giữ luật Hưu lễ), còn hắn, chúng ta chẳng biết hắn tự đâu ra?” (c.29).
bb) “Chúng tôi biết Thiên Chúa không
nhận lời hạng tội lỗi, nhưng ai thờ Chúa
và làm theo
ý Người, thì Người nhận lời kẻ ấy (bằng chứng là phép lạ chữa
bệnh mù của tôi đây)…
Nếu ông ấy đã không bởi Thiên Chúa mà
đến, thì đã chẳng làm gì được”
(c.31-33)
Ta có thể nhờ
lời cổ nhân mà phân
tích đoạn này. Tuân Tử
(330TCN-227TCN) cho rằng:
Điều mà ai cũng biết
là: tri thức nào cũng đều
bắt đầu từ ngũ
quan, tiếp nhận ấn tượng; còn cái tâm thì
suy xét, phân biệt các ấn tượng
ấy mà biết. Tai, mắt,
mũi, miệng… thì tiếp xúc với bên
ngoài, nhận các ấn tượng,
nhưng không có cái nào
làm chủ sai khiến cái nào. Còn tâm đứng
giữa, thì làm chủ để
cai trị
các ngũ quan, thâu gom
tất cả về nó. Nó
có cái năng
lực suy xét, phân biệt;
cho nên mới
có câu: “Nhờ đâu mà biết? Đáp: Nhờ Tâm” (thiên: Giải
tế). “Tâm
không (hoạt) động, thì trắng đen ở ngay trước mắt mà không
nom thấy, trống
khua lớn ở bên cạnh mà tai không nghe”
(Giải tế).
Đó là nói về cái
biết đối với các vật
có hình tượng…
Đối với đạo lý, muốn biết, thì tâm phải
ở trong trạng thái “hư nhất
nhi tĩnh”: “Hư” là trống không, ý nói đừng có sẵn thành
kiến trước,
mà làm tổn
hại đến điều gì sắp tới. – “Nhất” là một, nghĩa là thường tâm ôm đồm
nhiều quá, nên muốn biết một điều gì, thì phải chọn một điều thôi, tập trung vào đó, để
cho cái biết
được tinh vi. – “Tĩnh”
là yên lặng.
Bản chất tâm là luôn
hoạt động,
nhưng khi để ý vào một việc gì, tâm phải
giữ cho bình tĩnh, đừng để cho huyễn mộng, tưởng tượng vẩn vơ… và
những buồn phiền giao động mà làm rối loạn
(Giải tế). Hồi xưa, Đức Khổng Tử cũng đã tâm niệm
4 điều quyết:
không ức đoán, không võ đoán, không
cố chấp, không chủ quan” (Tử tuyệt tứ: vô ý, vô tất,
vô cố, vô ngã. – Tử Hãn).
Muốn cho tâm được hư nhất nhi tĩnh, thì phải “tri dã cung” là
nghĩ một cách kính cẩn,
ngoài ra phải “tri dã lạc”, tâm phải ở trong một trạng thái hòa đồng
làm một với thiên đạo, tức là phải thành:
vừa trong sáng, vừa ngay thẳng, thành tâm, thiện
chí (lấy theo Giản Chi…,sđd, t.I,
488tt, 606tt). Bây giờ
áp dụng vào hai cái
biết của đoạn trên, thì thấy:
Về a): Cái tâm của nhóm
Biệt phái không ‘hư’ (trống rỗng), nhưng đã bị nhiều thành kiến chiếm cứ, và không ‘tĩnh’,
tức là đã để cho nhiều đố kỵ bè phái, thiên
kiến đối với Đức Giêsu (x. Ga 5, 15-18) làm giao động
và làm lú
lấp mà quên thiên đạo.
Họ không xét đến cái tốt (chữa lành bệnh mù) mà chỉ bo bo nhìn
vào việc không giữ Hưu lễ (mà họ đã
chẻ tóc làm tư cho
thành một luật nặng nề, cứng ngắc, nghẹt thở), và nhất là tưởng
rằng đó là tất cả
đạo.
Về aa):
Anh mù đã
dựa vào giác quan kinh
nghiệm sự vật mà suy
xét: đã mù (một sự
kiện hữu hình), nay được sáng mắt (một sự kiện nữa). Và từ đó, anh để tâm suy xét
phân biệt người chữa anh có là
kẻ tội lỗi hay ngược lại, và đó
là điều anh nói ra
ở bb).
Về b): Cái tâm của họ
không trống rỗng (‘hư’), đầy thành kiến; thêm vào đó không
giữ cho ‘hòa đồng với thiên đạo’, và không thành thực,
ngay thẳng, trong sáng. Họ
chỉ biết luật Môsê (toàn mặt cấm kỵ) mà không thấy
toàn bộ thiên đạo chép trong Kinh
Thánh: Thiên Chúa yêu thương,
dạy người ta yêu thương,
và coi đó
là điều quan trọng hơn hết, hơn cả muôn ngàn hy
lễ, và yêu thương là giới luật
trọng nhất gồm thâu mọi giới luật (x. Mc 12, 32-33). Nói
nôm na, cái
tâm của họ đã không được nỗ lực ‘trừ dục’, ‘thắng tà’ mà nên trong
sáng, thành thực.
Về bb): Chính anh mù (được
lành) lại sáng cái tâm
ra mà nhìn
nhận được
cái thiên đạo ấy: “Ai thờ Chúa và làm theo ý Người” (mà ở đây ý Người là yêu thương, giúp đỡ nhau…), “thì Thiên
Chúa nhận lời người ấy”. Nhận lời là làm
phép lạ theo ý người
ấy xin. Đang khi nhóm
Biệt phái mù tịt không
biết “hắn tự đâu ra” (mà họ
là những người thông thái), vì cái
tâm không ‘hư’, không ‘dã cung’, ‘dã
lạc’, nên đâm mù quáng,
chỉ dán mắt vào một
bộ luật và khư khư
giữ từng nét…; thì anh
mù lại sáng mắt ra và chỉ
cho họ biết nguồn gốc của Đức Giêsu là “bởi Thiên
Chúa mà đến”,
dựa theo thiên đạo này, tức quy luật chung, tự nhiên, mọi người nhìn nhận: Vì ai làm lành,
ai gây phúc
đức (ai phục vụ anh em mình),
thì chỉ có thể từ
Thiên Chúa mà ra, chứ
không từ sự ác, từ
ma quỷ, từ tội lỗi.
Lời dạy của triết gia Tuân Tử
không phải là đã lỗi
thời đâu!
|