Nước
Ai cũng cần
nước. Sau không khí, nước là
yếu tố quan trọng của đời sống.
Có nước mới có rau cỏ, mới có
sự sống. Ai cũng biết
thế, nhưng ít ai lại biết quí nước. Sở dĩ chúng ta không quí nước là vì
nước quá nhiều. Sử dụng
ở đâu và lúc nào cũng có.
Chỉ khi nào hạn
hán mọi sông và giếng đều cạn, mọi
suối đều khô, lúc ấy chúng ta mới biết
đến giá trị của một giọt nước. Chúng ta
thường quí những gì ít ỏi, hiếm hoi và có khuynh
hướng phung phí và coi thường cái có nhiều.
Đối với Ả Rập hay Tây
tạng, đối với khách bộ hành trong sa mạc thì mỗi giọt nước là
một giọt máu trong thân thể. Trái lại, với chúng
ta ở đồng ruộng hay ven sông, có phung phí
nước cũng không hết. Có nhiều khi
còn sợ nước gây úng thủy ngập lụt.
Chúng ta là những người giàu có nước uống,
nước giếng, nước sông, nước hồ,
nước ao, nước mưa, nước trái cây và
mỗi ngày chúng ta dùng từ 200 đến 500 lít
nước để ăn uống, tắm giặt, tha
hồ thoải mái.
Nhưng có bao giờ
chúng ta uống nước nhớ nguồn. Có bao
giờ chúng ta đặt câu hỏi tại sao tôi lại
được dư giật nước như thế.
Tại sao nước chúng ta dùng lại là
nước ngọt, trong khi ở biển nước
lại mặn đắng.
Kinh Thánh trả lời nước là tác
phẩm do Thiên Chúa tạo dựng. Ngay từ buổi khai
thiên lập địa, Thánh Thần Chúa đã bay
lượn trên nước. Thiên Chúa đã cho
mưa thuận gió hòa, đã dùng nước để tiêu
diệt cả một thế hệ vô luân ngoại trừ
Noe là người công chính. Nước
ở biển đỏ đã cứu thoát dân Do Thái và vùi
dập đoàn quân của Pharaon. Qua
những sự kiện ấy, chúng ta thấy
được giá trị của nước.
Trước hết,
nước tạo nên sự tươi mát. Bất cứ
nơi đâu, dù là sa mạc mà có
nước chảy vào, tức thì có ngay mầu xanh của
cây cối. Đứng trước một
dòng nước, ai lại không muốn tâm hồn mình
được tươi mới. Những
ngày hè nóng bức, chúng ta uống nước đá, tắm
nước sông hay gặp nước mưa thì quả
thực là mát mẻ. Từ vạn vật cho
đến lòng người,tất
cả đều được đổi mới. Chúng ta cũng hãy nghĩ đến dòng
nước Rửa tội đã gây nên trong chúng ta những
đổi mới cho đời sống thiêng liêng.
Tiếp đến
nước tinh luyện và tẩy sạch. Còn gì sạch
bằng nước, người Do Thái xưa kia đã hiểu như vậy, cho nên họ
đặt ra những luật lệ trong việc sử
dụng nước: phải rửa tay trước khi
ăn uống, phải tắm gội trước khi dâng
của lễ, phải rửa chân khi đi đường
xa mà trở về nhà.
Nước còn
được dùng để trừ bệnh phong cùi,
tẩy sạch mọi ô uế tình dục. Chúa
Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ trong ý nghĩa thanh
tẩy ấy và đã dùng dòng nước rửa tội
để xóa bỏ mọi dấu vết của tội
lỗi.
Nếu như nước thường do bàn tay Chúa dựng nên còn có ích cho việc dinh
dưỡng, thì Chúa càng có quyền để làm nên một
thứ nước trường sinh như chính Ngài đã
quả quyết với ông Nicôđêmô và người
thiếu phụ Samaria:
Nước hằng
sống của Chúa là nước cứu độ, ai
uống vào sẽ không bao giờ khát và không còn mơ
ước một thứ gì trên trần gian này nữa. Nước hằng
sống này xuất phát từ trái tim
ngập tràn yêu thương của Ngài, đã hoán cải
được biết bao nhiêu người, không lẽ
lại chẳng níu kéo được chúng ta ra khỏi
vũng lầy tội lỗi.
Nước sông Babylon đã
chứng kiến nỗi lòng thống hối của một
dân tộc lưu vong. Nước sông Giocđan đã góp phần
chữa lành Naaman, đã được diễm phúc đón
nhận Đấng Cứu Thế. Dòng nước hằng
sống vọt ra từ cạnh sườn Chúa đã tha
tội cho tên trộm lành, cho dân Do Thái cũng như cho toàn
thể nhân loại.
Điều quan trọng là chúng ta có
đến để kín múc hay không. Cho dù chúng ta có đang
sống bên bờ con kênh nhỏ thì đừng bao giờ
quên dòng nước hằng sống, đó là một dòng
nước ít người biết đến nhưng
lại không bao giờ cạn và nhiễm độc.
Điều cần thiết đó là: Hãy
hiệp thông với dòng sông ấy để lãnh nhận
những ân sủng của Chúa, nếu
chúng ta không muốn là những kẻ bị chết khát.
|