Đổi thay
Qua Tin mừng hôm nay, chúng ta nhận
thấy nơi Chúa Giêsu, con người gặp gỡ
được tình yêu và ơn cứu độ của
Thiên Chúa với những diễn biến nội tâm:
1. Một sự thay đổi:
Cũng giống
như các cuộc đàm thoại với ông Nicôđêmô, Marta
và Maria, người đàn bà ngoại tình, tất cả
đều kết thúc bằng một sự thay đổi. Qua
lời Chúa mà tất cả các nhân vật đã nhận ra
Chúa Giêsu là ai. Người đàn bà Samaria đã
có sự thay đổi trong ngôn ngữ khi nói chuyện
với Chúa. Lúc đầu bà gọi Chúa Giêsu là ông (You), ngôi thứ
hai, kế đó là Thưa Ngài (Sir), rồi từ việc
nhận thức Ngài là một tiên tri đến Đấng
Thiên Sai. Dịch từ tiếng Hy lạp “Kyrios”,
“Đấng Cứu Thế”, là Đấng mà theo
thánh Phaolô diễn tả trong thơ gửi tín hữu
Philipphê: “Mọi gối phải bái quì, cả trên trời
dưới đất và nơi âm phủ”.
2. Một sự hiểu biết:
Cuộc đối
thoại đã thay đổi từ sự ngộ nhận
tới thái độ thông cảm hiểu biết. Chúa Giêsu
nói về Ngài như là nước hằng sống. Lúc đầu, người đàn bà hiểu
nước hằng sống như là dòng nước luân
lưu trôi chảy, khác với nước ao tù ứ
đọng. Đối với
người Do Thái, nước là một biểu
tượng có ý nghĩa. Họ
thường đề cập đến sự khao khát
của đời sống tinh thần đối với
nguồn nước hằng sống và sự khao khát
của linh hồn tìm kiếm Thiên Chúa. Trong Cựu
Ước, suối nước biểu tượng cho
chính Thiên Chúa hay cho sự khôn ngoan qua việc tuân giữ
lề luật. Đó là món quà vĩ
đại nhất của Thiên Chúa. Theo Gioan
thì đó là sự xuất hiện của Chúa Giêsu,
Đấng được Xức dầu của Thiên Chúa.
Nước biểu tượng cho thần khí, như Chúa
Giêsu đã nói: “Ai tin vào Ta, thì từ lòng Người, sẽ
tuôn chảy những dòng nước hằng sống”. “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu
không sinh ra bởi nước và Thần Khí”.
3. Một lòng khao khát:
Trong cuộc đối thoại, Chúa Giêsu
đã vượt qua những hàng rào đố kỵ,
ngộ nhận để đi thẳng vào lòng khao khát
của con người. Theo William Barclay, thái độ
của người đàn bà lúc đầu không những là
hiểu lầm mà còn có vẻ mỉa mai, châm biếm Chúa
Giêsu: “Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi
chẳng còn khát và khỏi phải đến đây xách
nước nữa”. Nhưng trong thái độ mỉa mai
này đã biểu lộ một sự thật trong trái tim của con người. Đó
là khát vọng tìm kiếm một điều gì mà chỉ có
Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn được. Thánh
Augustinô đã nói lên sự thật này: “Trái tim
của chúng ta không bao giờ yên nghỉ cho đến khi
được nghỉ yên trong Người”.
4. Một chứng nhân:
Cuộc đối
thoại bị ngưng vì các môn đệ trở lại,
và người đàn bà đã để chiếc vò múc nước
ở giếng, trở về làng. Bà trở về làng
mà không mang vò nước theo chứng
tỏ rằng bà rất vội vã, muốn chia sẻ Tin
Mừng gặp gỡ Đấng Cứu Thế cho
những người khác. Giống như Philipphê khi đã
gặp được Chúa Giêsu rồi liền đi tìm
Nathanaen để loan báo Tin Mừng. Bà Maria Mađalêna đã
vội vã đi tìm các môn đệ và loan báo rằng đã
gặp thấy Chúa.
Sứ mạng của người Kitô
hữu cũng trải qua hai giai đoạn: trước
hết gặp gỡ Đức Kitô một cách cá nhân,
như là một chứng nhân; sau đó trở nên nhà
truyền giáo, loan báo Tin Mừng. Sự khám phá ra Chúa Giêsu là
Đấng Cứu Thế đã làm cho người đàn
bà vui mừng đến nỗi không còn cảm thấy
xấu hổ về tội lỗi của mình nữa. Bà
chạy đi loan báo công khai cho mọi người biết
về một con người đã biết tất cả
cuộc đời của bà. Bà chỉ nói
về điều xảy ra cho bà, và mời mọi
người hãy đến và xem.
Vai trò của người đàn bà Samaria là đưa mọi
người đến với Chúa Giêsu như Công
đồng Vatican II đã viết: “Việc tông đồ
mà mỗi người phải thực hiện bắt
nguồn từ mạch sống phong phú đích thật Kitô
giáo. Đó là căn bản và điều kiện của
mọi hoạt động tông đồ giáo dân.
Dẫn đưa mọi người
đến với Đức Kitô, nguồn nước
hằng sống cũng là vai trò của Giáo Hội, của
các người Kitô hữu như thánh Gioan đã nói:
“Giờ đây, không phải vì những lời chị
kể lại mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã
được nghe lời Người và chúng tôi biết
Người thật là Đấng Cứu Thế”.
|