Đường
về đỉnh vinh quang
(Suy niệm
của Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
Đây là một câu chuyện xưa có
tên “Người kế vị”, nội dung như thế
này: Ở ngôi chùa kia có vị cao tăng
với nhiều đồ đệ đông đến hàng
trăm người. Cũng như mọi người bình
thường, vị cao tăng biết rõ ràng quy luật
“sinh, tử” của Tạo Hóa là không có ngoại lệ. Nay tuổi cao, sức yếu, vị cao tăng
muốn tìm một người kế vị mình.
Ngặt nỗi, người kế vị chỉ có
một, còn đồ đệ thì rất nhiều. Vị
cao tăng nghĩ là một kế và tiến hành lựa
chọn người kế vị. Cứ khoảng vài ba
ngày, vị cao tăng tự đem giấu một món
đồ vật và phàn nàn với đồ đệ
rằng nơi đây có trộm cắp. Ít lâu sau, vị cao
tăng bỗng la lên: Trộm! Trộm! Có kẻ trộm!
Nghe tiếng thầy kêu, dù đang ngon
giấc, các đồ đệ đều bật dậy,
vội chạy tới. A là một đồ đệ
rất siêng năng, nhanh nhẹn, tháo vát, luôn quí trọng
thầy, thương yêu sẵn sàng giúp đỡ bạn,
có uy tín vào bậc nhất trong các đồ đệ
của vị cao tăng. A chạy đến
trước tiên, hy vọng sẽ giúp thầy tìm bắt
kẻ trộm, bảo vệ tài sản. Thấy A,
vị cao tăng vội túm lấy áo của A
và nói lớn: Bắt được kẻ trộm rồi.
Trước đông đảo các môn
đệ, vị cao tăng tuyên bố: A là kẻ trộm
vừa bắt được và đuổi A
đi. Bị thầy đuổi, không một lời thanh
minh, không một lời oán thán, A nhẫn
nhục ra đi. Ba ngày sau, A trở
lại Chùa, quỳ trước vị cao tăng và nói:
“Thưa thầy, con ngộ (giác ngộ - nhận thức)
được rồi”.
Vị cao tăng đỡ A dậy, trong lòng cảm thấy rất vui
vì đã lựa chọn được người kế
vị xứng đáng đúng như lòng muốn.
ĐƯỜNG VỀ ĐỈNH VINH
QUANG.
“Vinh
quang trên đỉnh núi” hôm nay, mà truyền thuyết cho là
núi Ta-bo, duy nhất chỉ xảy ra một lần cho
đến khi Chúa Kitô hoàn tất Chương trình Cứu
Độ. Đức Giêsu biến hình rực rỡ cùng
với sự xuất hiện của hai nhân vật Cựu
Ước, cho thấy tính cách xác thật và chắc
chắn của cuộc hành trình mà Đức Giêsu sẽ
thực hiện trên trần thế: Con đường
Thương Khó và Phục Sinh.
Đang
lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người
bổng đổi khác, y phục Người trở nên
trắng tinh chói lòa. Và kìa, có hai nhân vật
đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông
Ê-lia. Hai vị hiện ra, rạng
ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành
Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. (Lc. 9,29-31). Trong cuộc biến hình này, có hình
ảnh Đức Giêsu vinh quang, và ẩn chứa hình
ảnh Đức Giêsu chịu ô nhục: cuộc xuất
hành mà Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.
Trong
thoáng chốc, Phêrô - luôn là đại diện cho các môn
đệ - “nhận biết” được Đức
Kitô vinh quang, vì Người là con Thiên Chúa, như ông từng
tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng
sống”, nhưng ông không thể “nhận biết”
được Đức Kitô ô nhục, mà ngay sau cuộc
biến hình này, Đức Kitô sẽ bước vào con
đường đó: con đường Thập Giá. Xin
Chúa thương, đừng để Thầy gặp
phải chuyện ấy! (Mt. 16,22).
Đức
Kitô biến hình trước mặt những môn đệ
gần gũi Chúa nhất, để các ông vững tin vào
Đức Kitô, vào Chân Lý, vào con đường mà các ông
đang đi. “Thầy là đường, là
sự thật và là sự sống”. Niềm
tin vào Chúa Giêsu có đó, nhưng bước đi vững
vàng trong cuộc hành trình Đức Tin không luôn luôn dễ
dàng. Mỗi người phải biến đổi
để trở nên “đồng hình đồng dạng
với Chúa Kitô trong cái chết của Người” (Pl.3,10).
Sự
biến đổi ấy đòi hỏi mọi
người phải “thông phần những đau khổ
của Người”, bằng sự sám hối, sự
điều chỉnh, sự hoán cải sâu xa cuộc
đời mình. Không trở nên đồng hình
đồng dạng với Chúa Kitô trong cái chết của
Người, thì không thể “đồng hình dồng
dạng với Người” trong vinh quang được.
NHỮNG
THỬ THÁCH
Trước đông đảo các môn
đệ, vị cao tăng tuyên bố: A là kẻ trộm
vừa bắt được và đuổi A
đi. Bị thầy đuổi, không một lời thanh
minh, không một lời oán thán, A nhẫn
nhục ra đi.
Ba ngày sau, A trở
lại Chùa, quỳ trước vị cao tăng và nói:
“Thưa thầy, con ngộ (giác
ngộ - nhận thức) được
rồi”. Vị cao tăng đỡ A
dậy, trong lòng cảm thấy rất vui vì đã lựa
chọn được người kế vị xứng
đáng đúng như lòng muốn.
Điều
gì đã diễn ra trong lòng của đồ đệ A? Đó là những giờ phút độc thoại,
chiến đấu, lắng nghe nội tâm, đối
diện với chính mình. Một vị “chân tu”, không thể nào hành động vô lý như
vậy. Thế thì, đằng sau hành
động bất thường này, thầy có ý dạy
điều gì? Đồ đệ A
phải nâng tâm hồn lên để suy gẫm
được điều đó, để ngộ
được điều đó. Nếu không, lòng tự ái
bùng lên, danh dự bị thương tổn, đồ
đệ A không thể nhận ra tình
thương của thầy mình. Có thể tất cả
đã đổ vỡ!
Phêrô và các môn đệ đã biết
Chúa là ai. Thiên
Chúa không thể phản bội. Lời
Ngài không sai, dù một chấm, một phẩy. Hình
ảnh Chúa Giêsu biến hình khẳng định cho các môn
đệ sự vinh quang mà Thiên Chúa hứa ban là chắc
chắn. Chúa thành
tín trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu
thương trong mọi việc Chúa làm. (Tv.144,
13). Đó là sự xác tín căn bản. Đó
là Đức Tin của chúng ta. Từ sự xác tín
đó, niềm tin đó, chúng ta tiến bước theo Chúa. Phó thác trong hy vọng và
hạnh phúc.
Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã
chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một
điều, là quên đi
những chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng
tới đích, để chiếm được
phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa đã dành
cho những kẻ được Người kêu gọi
trong Đức Giêsu Kitô. (Pl.3,13-14). Để
tiến bước mạnh mẽ, để “lao mình
về phía trước”, để “chạy thẳng
tới đích”, đòi hỏi sự chiến đấu
nội tâm anh dũng, đè bẹp “cái tôi” hẹp hòi,
“chết đi con người cũ”, đó là “thập giá của đời
ta”.
Nếu
con người chỉ suy nghĩ và hành động theo ý
riêng, theo bản năng, theo dục vọng, theo khát
vọng thấp hèn, hạn hẹp, nhất thời,
trước mắt, con người không thể
bước vào lối hẹp, không thể đi vào con
đường Thập Giá! Điều
ấy, đồng nghĩa với việc con người
thuộc về thế giới của Sa-tan. “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng
của anh không phải là tư tưởng của Thiên
Chúa, mà là của loài người!” (Mt.16,23).
Không
phải chúng ta đòi hỏi có một Thiên Chúa như lòng
chúng ta mong ước, mà chúng ta muốn được
trở nên một con
người như lòng Thiên Chúa mong ước. Vì sự sống là từ Thiên Chúa. Nên con
người phải được biến đổi, và biến đổi hoàn hảo
đến mức hoàn toàn thuộc về Chúa, là của
Chúa, là chính Chúa hiện diện trong ta.
Tôi sống, nhưng không phải tôi
sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi. (Gl.2,20). Sự
biến đổi này, không phải chỉ là “nhận
biết” Thiên Chúa, “ngộ” được Thiên Chúa, mà
biến đổi thành chính Thiên Chúa, “thông phần vào
bản tính Thiên Chúa” (2Pr.1,4). Người
đã trở nên giống chúng ta, để chúng ta trở nên như Người
(Thánh Irénée).
Sự biến đổi ấy,
cuối cùng chính là Phục Sinh cùng Đức Kitô. Được về
miền Sáng láng và vinh hiển, vinh quang và vinh dự cùng
với Ngài cho đến muôn đời. Anh em là
giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư
tế vương giả, là dân thánh, dân riêng Thiên Chúa,
để loan truyền những kỳ công của
Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi
miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền (1Pr. 2,9)
THỰC
TẾ HÔM NAY
Chúa
Giêsu đã biến hình sáng láng trên núi. Những
môn đệ thân yêu của Chúa Giêsu đã chứng kiến
giây phút vinh quang của Chúa Giêsu. Giây phút mà ngay lúc
đó, sẽ không có gì có thể lay
chuyển niềm tin của các môn đệ.
Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài
lòng về Người.
Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! (Mt.17,5). Nhưng Chúa Giêsu đã
đưa các môn đệ xuống núi. Ánh
vinh quang đã tắt, cuộc sống đời
thường đã trở lại trước mắt.
“Đỉnh vinh quang” không một sớm
một chiều mà có được để tận
hưởng dài lâu. Đường
Đến Đỉnh Vinh Quang còn nhiều chông gai thử
thách. Người đi còn gặp
nhiều gian khổ. Có những
người bỏ cuộc. Có những
người lạc hướng. Có
những người chọn bến bờ khác.
Nghe
rồi, nhiều môn đệ của Người liền
nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe
nổi?” (Ga.6,60).
Từ lúc đó, nhiều môn đệ
rút lui, không còn đi với người nữa. (Ga.6,66).
Phải
biến đổi con người mình tận gốc
rễ để đến bến bờ sự sống
vĩnh hằng. Phải biến đổi
đến mức tự hủy diệt mình đi mới
“sống lại” một cuộc đời mới, sự
sống mới.
Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng
đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi
một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh
được nhiều hạt khác. (Ga.12,23-28).
Lạy Chúa,
Xin cho con luôn biết cố gắng
vươn lên,
từng giây phút đổi thay
đời mình,
đến gần sự thiện
hảo hơn,
để con được
hưởng vinh quang đời đời,
trong Tình Yêu của Chúa. Amen.
|