LTHN Chúa Nhật II Mùa Chay
Cuộc biến đổi cánh chung hằng ngày vẫn tiếp diễn...
cho đến khi Chúa Kitô lại đến
Tiến trình phụng vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật I và II Mùa Chay, bất kỳ thuộc chu kỳ phụng niên (A-B-C) nào, đều được Giáo Hội sắp xếp bài Phúc Âm giống như nhau. Ở chỗ, bài Phúc Âm cho Chúa Nhật I Mùa Chay về sự kiện Chúa Giêsu chay tịnh 40 đêm ngày trong hoang địa, và bài Phúc Âm cho Chúa Nhật II Mùa Chay sau đó bao giờ cũng về sự kiện Chúa Giêsu biến hình trên núi cao.
Hai sự kiện có vẻ hoàn toàn đối nghịch nhau trong hai bài Phúc Âm tuần 1 Mùa Chay và tuần 2 Mùa Chay này, theo dự án cứu độ của Thiên Chúa và công cuộc cứu độ của Chúa Kitô, là những biến cố bất khả phân ly, bởi vì cả hai đều ám chỉ và hướng về Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, một biến cố Vượt Qua từ khổ giá (được ám chỉ nơi việc Chúa Kitô chay tịnh) tới phục sinh (được chất chứa nơi sự kiện Chúa Kitô biến hình).
Sự kiện Chúa Kitô chay tịnh trong hoang địa ám chỉ khổ chế cùng chết chóc về phương diện liên quan đến nhân tính của Người, và sự kiện Chúa Kitô biến hình trên núi cao ám chỉ sự sống cùng lên trời, về phương diện liên quan đến thần tính của Người, là những gì chứng thực cho chung loài người, nhất là cho riêng Kitô hữu, biết ít là hai chân lý bất hủ như sau: 1- "Tôi tự bỏ sự sống mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17), 2- "Hạt lúa miến được gieo xuống có mục nát đi thì nó mới sinh nhiều hoa trái" (Gioan 12:24), 3- "Ai yêu sự sống mình sẽ mất còn ai ghét mạng sống mình trên thế gian này thì sẽ bảo trì được nó" (Gioan 12:25).
Mục đích của hai bài Phúc Âm được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho hai tuần đầu trong 5 tuần Mùa Chay dường như là để như ngầm nói với thành phần Kitô hữu là chi thể của mình rằng việc chay tịnh, bỏ mình và vác thập giá của họ theo Chúa Kitô hoàn toàn không hủy diệt họ, trái lại, càng làm cho họ thăng hoa, cho họ "được sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan 10:10) từ Đấng "là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25).
Tất cả những hy sinh, hãm mình, khổ chế, bỏ mình, chịu đựng trong đời sống Kitô hữu của thành phần môn đệ của Chúa Kitô đều được biến đổi thành linh thiêng và bất hủ, như "mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết", được Thánh ký Mathêu diễn tả trong bài Phúc Âm hôm nay, nghĩa là cả thân xác của họ (được tiêu biểu nơi "mặt của Người"), cũng như những gì liên hệ với thân xác của họ như các loài "thụ tạo đang rên xiết" (Roma 8:22) được họ sử dụng (tiêu biểu nơi "áo của Người") đều được "biến đổi nên giống như thân xác vinh quang của Người" (Philiphê 3:21).
Cuộc biến đổi cánh chung này thật ra hằng ngày vẫn tiếp diễn trên bàn thờ cho đến khi Chúa Kitô lại tới, trong phụng vụ Thánh Thể, khi "bánh là hoa mầu ruộng đất và lao công của con người... trở nên bánh nuôi sống chúng tôi" là chính Mình Thánh Chúa Kitô, và "rượu bởi cây nho và lao công của con người ... trở nên của uống thiêng liêng cho chúng tôi" là Máu Thánh Chúa Kitô, một Thánh Thể (bao gồm cả Mình và Máu) "đã chết để tiêu diệt sự chết nơi chúng con, và sống lại để phục hồi sự sống cho chúng con" (Một trong những lời tung hô sau khi chủ tế thánh hiến bánh và rượu nên Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Kitô).
Thế nhưng, để tiến tới đích điểm được biến đổi thần linh, cả bản thân họ là loài người lẫn tạo vật liên hệ với họ, họ cần phải tin vào Chúa, nhờ đó họ mới trở nên như Chúa Kitô phục sinh vinh hiển. Và niềm tin tưởng vào Thiên Chúa của họ giống như niềm tin của tổ phụ Abraham trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Abram liền ra đi, như lời Thiên Chúa phán dạy", và ông quả thực đã tiến đến một miền Đất Hứa, nơi loài người, qua vị tổ phụ này, không còn sống riêng tư một mình ở chính nơi mình xuất phát nữa, mà trở thành một cộng đồng Dân Chúa có tính cách phổ quát và công giáo, bao gồm tất cả mọi dân tộc trên thế giới là tất cả loài người được cứu độ bởi Chúa Giêsu Kitô, một dự án thần linh cứu độ đã được chất chứa ngay trong lời Thiên Chúa hứa cùng tổ phụ Abraham trong Bài Đọc 1 hôm nay:
"Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn, Ta sẽ ban phúc cho ngươi, cùng làm vinh danh ngươi, ngươi sẽ được diễm phúc. Ta sẽ ban phúc cho ai chúc phúc ngươi, và chúc dữ cho ai chúc dữ ngươi. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ nhờ ngươi mà được diễm phúc".
Chính vì "Thiên Chúa, Ðấng giải thoát và kêu mời chúng ta bằng ơn thiên triệu thánh của Người, không phải do công việc chúng ta làm, mà là do sự dự định và ân sủng đã ban cho chúng ta từ trước muôn đời trong Ðức Giêsu Kitô, nhưng bây giờ mới tỏ bày bằng sự xuất hiện của Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Chuộc chúng ta, Người đã dùng Tin Mừng tiêu diệt sự chết và chiếu soi sự sống, và sự không hư nát được tỏ rạng", như Thánh Phaolô cảm nhận và xác tín trong Thư 2 gửi cho môn đệ Timothêu của ngài ở Bài Đọc 2 hôm nay như thế, mà Kitô hữu nào tin tưởng vào Chúa và đáp ứng Ngài, như Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, mới chẳng những có thể cảm nhận được Lòng Thương Xót Chúa mà còn thành nơi cho Lòng Thương Xót Chúa tỏ mình ta, như ý nghĩa của câu họa ở bài Đáp Ca hôm nay: "Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài".
Chúa Kitô chính là tột đỉnh mạc khải thần linh theo Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái và là tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa nơi Biến Cố Vượt Qua của Người, một biến cố hoàn tất dự án cứu độ của Thiên Chúa và công cuộc cứu độ của Người, hiện thực chẳng những tất cả những gì Thiên Chúa tự động hứa hẹn với hai nguyên tổ sau nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15) cũng như với tổ phụ Abraham trong Bài Đọc 1 hôm nay, mà còn chứng thực Lòng Thương Xót của Cha trên trời ở nơi Người đối với những ai tin tưởng cậy trông vào Người, thành phần thực sự cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa nên họ không thể nào không cùng với Thánh Vịnh gia hướng về Thiên Chúa bằng tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay như sau:
1) Lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa.
2) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Ngài, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Ngài, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.
3) Linh hồn chúng tôi mong đợi Chúa: chính Ngài là Ðấng phù trợ và che chở chúng tôi. Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
|