BÀI LỜI
CHÚA 111
ThỜ phưỢng ChÚa Ở ĐÂu ?
Trích
lược Tin Mừng Thánh Gioan 4.1-24
Có
một lần kia, Đức Giêsu đi băng qua xứ
Samari, gặp buổi trưa nóng bức, mệt nhọc vì
đường xá xa xôi, Ngài ngồi xuống bên miệng
giếng, xin người phụ nữ Samari đang múc
nước tại đó cho Ngài vài ngụm. Lân la chuyện
vãn một hồi, Đức Giêsu mới bảo chị ta rằng :
- Hãy đi gọi chồng
ngươi đến đây !
Người
phụ nữ đáp :
- Tôi không có chồng.
Đức
Giêsu lúc ấy mới cho chị thấy Ngài thông suốt bí
ẩn đời người ta :
- Chị nói phải : “Tôi không có
chồng”, vì chị đã lần lượt lấy
đến 5 ông, và ông thứ sáu đang chung sống với
chị cũng không phải là chồng chị nữa.
Chị
ta thấy ông khách lạ này biết rõ đời tư
của chị, nên chị vừa tôn kính, vừa sợ hãi
kêu lên :
- Quả thật, tôi thấy Ngài là một tiên tri !
Ý
nghĩ ấy khiến chị muốn xin Ngài giải
đáp thắc mắc này :
- Cha ông chúng tôi đã thờ phượng trên núi
Ga-ri-dim này, còn phía các ông thì lại bảo phải thờ
phượng tại Đền Thờ Giêrusalem cơ. Bên
nào đúng, bên nào sai ?
Đức
Giêsu bèn dạy chị ta :
- Này chị, hãy nghe Ta, sẽ
đến giờ, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem
mà người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha... Thiên Chúa là Thần Khí, nên người ta
phải thờ phượng Người trong Thần Khí và
sự thật.
* Đó là Lời Chúa !
- Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa !
Suy niệm Lời Chúa
Bài trước đây, chúng
ta đã học : ngày xưa, Thiên Chúa
cứu dân Israen và nay cứu loài người chúng ta, là
cốt để người ta thờ phượng
Người. Câu hỏi
được nêu ra ngay lập tức là :
Thờ phượng Thiên Chúa
ở đâu?
Ngày
xưa, người ta tin rằng dân nào có Thần nấy và
phải phụng thờ, hoặc nơi đền miếu
hay những nơi “cao” (trên đồi).
Dân Israen cũng không ngoại
lệ. Đừng
quên rằng thuở ban đầu, dân tộc họ cũng
xuất thân từ ngoại giáo, từ giữa thế
giới đang chìm sâu trong u mê lầm lạc. Sau này, tuy
được Thiên Chúa chọn làm dân riêng, nhưng chung
quanh họ là thế giới ngoại giáo, họ thấy
nơi nào cũng có đền thờ hay am miếu làm
nơi ở của thần, vậy dĩ nhiên Thiên Chúa,
Thần của Israen, cũng phải ngự trong một
đền thờ chứ còn ở đâu nữa.
Sau khi
họ được giải phóng khỏi làm nô lệ
người Ai Cập, thì đi vào hoang địa, mà vì
luôn phải dời chỗ, nên dân
dựng Lều Tạm bằng vải làm nơi tế
lễ thờ phượng Chúa. Rồi sau này, khi dân đã
định cư trong Đất Hứa, thì họ sẽ xây
Đền thờ bằng gỗ đá vững vàng làm
nơi Người ngự, để ở đó dân chúng
đến thờ phượng Người.
Đối với Dân Do Thái, đền thờ là
điều tối quan trọng, là trung tâm tôn giáo của
họ, vì Thiên Chúa ngự ở đó và cũng chính ở
đó họ thờ Thiên Chúa. Ngày nào họ còn có Thiên Chúa
ngự trong đền thờ, thì họ còn được
bảo đảm an ninh sinh mạng, an toàn xứ sở,
ngày nào do họ phạm tội lỗi, Thiên Chúa rời
bỏ đền thờ mà đi, đó là dấu báo
hiệu dân tộc họ đến hồi suy vong,
đất nước họ đến hồi tiêu
diệt: Thần của họ mà bỏ đi thì còn ai
bảo vệ cho họ nữa ? (Mời đọc mấy đoạn sách tiên tri
Ez 9.3tt; 10.18tt; 11.22tt sẽ thấy).
Nhưng
tại sao Thiên Chúa lại có thể rời bỏ
đền thờ mà đi ? Đó là
tại vì người ta lạm dụng đền thờ,
đã sử dụng Đền thờ sai mục đích,
đã mù quáng coi đền thờ thành một thứ phù
phép bảo vệ họ để họ yên tâm phạm tội :
“Thiên Chúa của Ít-ra-en phán : Hãy cải thiện lối sống và
hành động của các ngươi, … Đừng
ỷ vào lời giả dối sau đây :
“Chúng ta có Đền Thờ của ĐỨC CHÚA” […] (Các
ngươi cứ) 9 trộm
cắp, giết người, ngoại tình, thề gian,
đốt hương cúng tế tà thần … 10
rồi lại vào nhà này, nơi danh Ta
được kêu khấn, đến trước mặt
Ta mà nói : “Chúng ta được an toàn !”, sau đó cứ
tiếp tục làm những điều ghê tởm ấy.
Thế nghĩa là gì ? 11
Phải chăng các ngươi coi nhà này, coi nơi
danh Ta được kêu khấn là hang trộm cướp sao ?” (Gr 7.3-11).
Quả thật, vì tội lỗi của dân, Thiên
Chúa sẽ bỏ Đền thờ Giêrusalem, và thế là dân
tộc họ sẽ tiêu vong. Sau khi bị Thiên Chúa trừng phạt mất
nước nhà tan, và đi lưu đày, dân Israen lại
được Chúa thương cho hồi hương, và
khi về đến quê nhà, họ lại lo tái thiết
đền thờ đã bị phá hủy.
Tuy
Thiên Chúa ủng hộ công việc tái thiết của
họ, nhưng Người nhờ các ngôn sứ cảnh
báo dân Israen rằng Người không cần đền
thờ, Thiên Chúa chỉ ưa thích ai vâng nghe lời
Người :
1
ĐỨC CHÚA phán thế này :
“Trời là ngai của Ta, và đất là bệ dưới
chân Ta.
Các ngươi sẽ xây cho Ta nhà nào,
và nơi nào sẽ là chốn Ta nghỉ ngơi ?
2 Tất cả những vật
ấy, chính tay Ta đã làm.
Tất cả những vật ấy
đều là của Ta - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.
Kẻ được Ta đoái nhìn :
đó là người nghèo khổ,
người có tâm hồn tan nát, người kính sợ mà nghe
lời Ta.”
(Ys
66.1-2)
Nhưng
vào thời xưa ấy, làm sao người ta có thể
hiểu được ý muốn của Thiên Chúa. Chỉ
đến thời viên mãn, khi Đức Giêsu xuất
hiện, Ngài mới dùng uy quyền tối cao của mình
là Đấng Thiên Sai, mà mặc khải cách chung cuộc cho
biết, không chỉ sự kiện Thiên Chúa không cần
đền thờ, mà còn cho biết lý do, đó là vì : Thiên Chúa là Thần Khí.
Và
trong bài trước, ta đã được nghe Thánh Phaolô
phát biểu trước mặt những người dân
thành Athêna, Hy Lạp, vốn rất sùng đạo đa
thần:
24"Thiên Chúa Đấng tạo thành vũ
trụ và vạn vật trong đó, Đấng làm Chúa
trời đất kia, Người không phải lấy làm
nhà ở những đền miếu tay phàm làm ra.” (Cv 17.24).
Ngày
nay, sau khi Chúa Giêsu công bố lời quan trọng nêu trên
đã hơn 2000 năm, không biết Kitô hữu chúng ta có
hiểu và sống lời của Ngài chưa ? Vì vẫn nghe
người ta kháo láo : “Chúng tôi thường nghe người
có đạo nói đi nhà thờ… nơi Thiên Chúa ngự, và
muốn gặp Chúa và thờ phượng thì phải
đến đó mới có Chúa !”
Đáp : Quả
thật có nhiều người có đạo vẫn làm
như thế, do đó đời sống họ như
tách đôi : đến nhà thờ thì có Chúa, về nhà thì
không, muôn sống sao cũng được. Vì thế,
biết bao gia đình Công giáo mà ra như nhà một
người ngoại, ở đó diễn ra đủ
thứ gương mù, xấu xa… Họ vẫn sống
như người thời xưa, tưởng Thiên Chúa chỉ
ở trong Đền Thờ, và chỉ đến đó
mới có Thiên Chúa.
Thời
xa xưa ấy, loài người còn bán khai, dân trí còn
thấp kém, tâm lý chung còn cột chặt với vật
chất, còn quen sống với những gì hữu hình, thấy
được, sờ mó được. Dân Israen cũng
không ngoại lệ, họ không thể, hay rất khó mà tin
vào một Thiên Chúa vô hình, vô tượng, nên đã có lần
họ đòi phải đúc cho họ con bò vàng, để
họ coi đó là Thiên Chúa cụ thể sờ sờ.... Họ
cần có Đền Thờ, để họ cứ
đến đó thì mới gặp được Thiên Chúa.
Nhưng nay đã đến thời Tân Ước thì
không còn sống như thế được nữa.
Đây là thời viên mãn, nghĩa là những gì cần
chuẩn bị đã xong, dân trí cũng đã đủ
trình độ để hiểu biết, Đức Giêsu
mới tuyên bố : “Sẽ đến giờ”...,
tức là từ lúc Chúa Giêsu
sống lại vinh hiển, thì sẽ không cần thờ
phượng tại nơi nọ, nơi kia theo lối
xưa nữa. Và Ngài mặc khải cho biết bản
tính “Thiên Chúa là Thần khí”, nói nôm na tức là thuần
thiêng thiêng liêng, vô hình, không có chút gì vật chất, hoàn toàn
siêu việt khác hẳn mọi sự, mọi loài…; cho nên
lối thờ phượng cũng phải thích hợp
với bản tính Người, đó là “thờ phượng trong Thần khí và sự
thật”, và Ngài tuyên bố thẳng thừng : “Chúa Cha chỉ muốn gặp
thấy những kẻ thờ phượng Người
như thế”. Lối thờ phượng nào không
như thế, không được Chúa Cha chấp nhận !
Do
đó : Từ nay, đừng nghĩ rằng cứ
phải đến nhà thờ, mặc áo đi nhà thờ
mới có Chúa, mới gặp được Chúa, mới
thờ phượng Chúa. Thiên Chúa không bị cột
chặt vào một nơi nào cả, dù đó là Thánh
Đường nguy nga đồ sộ, hay một nhà nguyện
nhỏ bé ... Thiên Chúa ở khắp nơi. Vì “Thiên Chúa là Thần Khí”,
có bản tính thiêng liêng, vô hình, Bởi thế thì chỗ nào Người
cũng có mặt, ai tin và yêu Người, là gặp
được Người, Người ở trên trời
với các thánh, Người ở dưới đất
với ta, nơi công sở, tại xí nghiệp, ở ngoài
đường, khi ta chạy trên xe gắn máy hay đi
bộ... đi chợ hay làm bếp cũng gặp
Người ở đó, cũng có Người ở
với ta, nhìn ta, thương ta, ban phúc lành, ban ơn thánh
giúp sức ta…
Như vậy, ta có thể
thờ phượng Người, yêu mến Người,
tiếp xúc và gặp gỡ Người ở bất
cứ đâu, đặc
biệt là ở trong anh chị em ta, nhất là những
người nghèo khó, tất bạt mà ta an ủi hay giúp
đỡ : “Quả thật, Thầy bảo
anh em: những gì anh em đã làm cho một người trong
các anh em hèn mọn nhất này của Thầy, là anh em đã
làm cho chính mình Thầy." (Mt 25.40)
Tích truyện
Neesima,
cậu bé người Nhật bổn, vì nhà nghèo, nên mới
lên 10 tuổi, đã phải đi giữ chuồng ngựa.
Năm 11 tuổi, Neesima bắt đầu nghi ngờ
sự thờ lạy hình tượng và thờ tổ tiên
trong gia đình mình. Cậu thấy thợ lấy gỗ
chạm trổ hình tượng thần, và cậu lý
luận rằng một thần sống không thể có
bộ dạng như vậy. Ngày kia, lúc cả gia đình
quì lạy hình tượng thì Neesima cứ đứng
thẳng, và cậu nói:
- Thưa cha, con không thể
thờ cúng chung với cha được nữa.
- Mầy điên sao? Cha cậu
hỏi.
Neesima nhấn mạnh:
- Những hình
tượng nầy không phải là chân thần. Nó chỉ là
gỗ, đá. Tại sao người sống lại
thờ lạy vật chết ?
Ông già thở dài và
tiếp tục thờ cúng. Neesima buồn rầu trong lòng,
rón rén bước ra. Chắc phải có một Đấng thiêng
liêng mà cậu có thể thờ lạy. Ước gì
cậu có thể tìm thấy Ngài! Neesima cầu xin rằng:
“Ôi! Nếu Ngài có mắt, xin hãy nhìn xem tôi! Nếu Ngài có tai,
xin hãy nghe tôi!”
Có một cái gì trong lòng thúc
đẩy cậu lìa khỏi nước Nhật, ra đi
tìm kiếm Thiên Chúa. Một người bạn làm ở hãng
tàu đã sắp đặt cho cậu được
nhận trên một chiếc tàu đi Trung Hoa. Tại
Thượng hải, cậu may mắn tìm được
việc làm trên chiếc tàu Mỹ chở hàng, tên là Will Rover.
Đang khi tàu cất hàng tại Hương cảng, thì
Neesima đi xem các tiệm buôn. Trong một tiệm sách,
cậu nhìn thấy một quyển Tân Ước, giống
như quyển Kinh Thánh chữ nho mà cậu đã thấy
mấy năm trước. Để mua quyển Tân
Ước, cậu bán thanh kiếm Samurai, vốn là vật tượng
trưng cho lòng trung thành của mình đối gia đình và
tổ quốc. Đây là một hy sinh mà chỉ người
Nhật mới biết là lớn lao dường nào.
Cậu cầu nguyện rằng: “Ôi! Lạy Đức Chúa
Trời, xin Ngài đừng để tôi hy sinh vô ích!”
Suốt một năm trên
chiếc tàu chở hàng, cậu học từng chữ trong
Tân Ước đến nỗi thuộc lòng gần
hết. Ông chủ tàu nghe biết cậu này khát khao tìm
kiếm Thiên Chúa, nên đem Neesima về nhà và nhận làm con
nuôi.
Vì cha nuôi cậu là một
Kitô hữu, nên Neesima được học Kinh Thánh và
hiểu rõ rằng Chúa Cứu Thế mà cậu đọc
truyện đó đã chịu chết vì cậu, đã
chịu sự hình phạt mà cậu đáng phải
chịu vì tội lỗi mình. Cậu đáp lời Chúa Kitô,
đem tất cả lòng tin mà đến cùng Ngài, và
cậu tìm được sự bình an trong lòng mà mình đã
suốt đời mong ước. Cậu hết lòng cảm
tạ Thiên Chúa.
Đến năm
1867, một Nhật hoàng khác lên ngôi, chủ trương
chánh sách mở cửa cho ngoại quốc, nên ông Neesima
đã được trở về quê hương và đem
Tin Mừng Chúa đến bao nhiêu triệu người
Nhật đang thờ tà thần.
ššU›œ
|