Nên hay dừng?
- JM. Lam Thy
Cả chương 5 sách Tin Mừng theo Thánh
Mat-thêu trỉnh thuật Lời dạy của Đức
Giê-su nhằm giúp các môn đệ và những kẻ tin
trở nên người công chính: Từ “8 mối phúc”
đến “muối, men và ánh sáng cho đời”. Tiếp
liền theo đó, Đức Giê-su lại dạy 5
“Đừng”: Đừng giận ghét – Chớ ngoại tình
– Đừng ly dị – Đừng thề thốt –
Chớ trả thù; và 1 “Nên”: Phải yêu kẻ thù.
Bài Tin Mừng tuần trước (CN VI/TN-A –
Mt 5, 17-37) trích Lời Đức Giê-su dạy các môn
đệ 4 “Đừng”; đến bài Tin Mừng hôm nay (CN
VII/TN-A – Mt 5, 38-48), Người lại dạy thêm 1
“Đừng” nữa: Chớ trả thù. Vì sao con
người hay trả thù? Chung quy cũng do tự ái quá cao
mà thôi, bởi tự ái là gì nếu không phải là tự yêu
mình. Khi chỉ biết yêu mình một cách thái quá thì sẽ
cho là mình đúng, lúc nào và trong trường hợp nào
cũng đúng hết. Bởi thế nên được
người khen thì chẳng nói làm gì, nhưng bị chê thì
sửng cồ lên ngay. Bị phê bình trúng tim đen thì
bằng mọi giá sẽ tìm cách trả đũa. Nói cách
khác, khi con người tự ái quá đáng, sẽ rất
dễ giận ghét và từ giận ghét sẽ đưa
đến hành động trả thù.
Ngay trong Cựu Ước, Lề Luật
cũng dạy: “Luật báo phục tương xứng:
Mạng đền mạng, mắt đền mắt,
răng đền răng, tay đền tay, chân đền
chân.” (Đnl 19:21); “Nếu
ai làm cho người đồng bào phải mang tật, thì
phải xử với nó như nó đã xử với
người ta: chỗ gãy đền chỗ gãy, mắt
đền mắt, răng đền răng; nó đã làm
cho người khác mang tật thế nào, thì người ta
cũng sẽ làm cho nó như vậy.” (Lv 24, 19-20); “Nếu
có gây tổn thương, thì ngươi phải lấy
mạng đền mạng, mắt đền mắt,
răng đền răng, tay đền tay, chân đền
chân” (Xh 21, 23-24). Mới nghe qua những điều
khoản đó thì thấy quả thật là Lề Luật
quá khe khắt. Và cũng vì thế nên đã có những bài
suy niệm cho rằng hành động như vậy là
phản Ki-tô giáo. Sẽ có phản biện: Nếu là
phản Ki-tô giáo thì tại sao Đức Giê-su không bãi
bỏ mà Người lại dạy “Thầy đến
không phải để bãi bỏ, nhưng là để
kiện toàn Lề Luật” (Mt 5, 17)?
Thực ra, vấn đề cũng không
đến nỗi nan giải cho lắm. Trước
hết, cần phải hiểu Lề Luật của
Cựu Ước dù sao cũng chỉ là luật do con
người đặt ra, mà đối với con
người thì chỉ thích sòng phẳng theo kiểu “ân
đền oán trả” (đền ơn trả oán), nên mới
đòi “mạng đền mạng, mắt đền
mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân
đền chân”. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là
lề luật có tính răn đe: Chỉ có nghiêm ngặt
như vậy mới có thể răn đe, ngăn
ngừa người ta phạm tội. Coi lại câu
chuyện Nguyên tổ phạm tội thì vấn đề
sáng tỏ ngay. Thiên Chúa đưa ra giới luật “trái
cấm” cũng là để răn đe. Nếu con
người biết vâng phục thì đâu có sao. Đã không
vâng lời, còn muốn trở nên “những vị thần
biết điều thiện điều ác" (St 3, 5) ngang
bằng với Thiên Chúa, nên mới thành cớ sự.
Biết là tội mà còn cứ cố tình phạm tôi, rõ ràng
Nguyên tổ loài người đã tự xử án mình.
tự kết án mình vậy. Đức Giê-su Thiên Chúa
cũng đã từng khẳng định: “Ai nghe những
lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét
xử người ấy, vì tôi đến không phải
để xét xử thế gian, nhưng để cứu
thế gian. Ai từ chối tôi và không đón nhận
lời tôi, thì có quan toà xét xử người ấy: chính
lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong
ngày sau hết.” (Ga 12, 47-48).
Không những chỉ khuyên “Chớ trả
thù”. Đức Giê-su còn đi xa hơn: “Phải yêu kẻ
thù”. Để cụ thể hóa vấn đề,
Người lại tiếp tục dùng kiểu nói “Luật
dạy rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em
biết…”, để răn dạy môn đệ: "Anh em
đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền
mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy
bảo anh em: đừng chống cự người ác,
trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy
giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện
anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho
nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh
đi một dặm, thì hãy đi với người
ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn,
thì đừng ngoảnh mặt đi.” (Mt 5, 38-42). Đã
không “ăn miếng trả miếng”, mà lại còn lấy
đức độ mà đáp trả oán thù (dĩ
đức báo oán), sẵn sàng chịu đựng gấp
bội sự tàn độc của ác nhân, thì quả là…
thiên nan vạn nan, khó lòng mà chấp hành.
Con người chỉ có thể tự yêu
mình (tự ái), khó lòng yêu được người khác,
chớ đừng nói đến yêu cả kẻ thù. Mà có
lẽ cũng chính vì thế nên mới có vụ “cửa
rộng, cửa hẹp” ("Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì
cửa rộng và đường thênh thang thì đưa
đến diệt vong, mà nhiều người lại
đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường
chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít
người tìm được lối ấy. Mt 7, 13-14).
Như vậy thì phải làm sao? Cái đó hoàn toàn tuỳ
thuộc vào bản thân, bởi “Trước mặt con,
Người đã đặt lửa và nước, con
muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước
mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai thích
gì, sẽ được cái đó” (Hc 15, 16-17). Nếu không
muốn bận tâm bận trí, không muốn hy sinh này,
thiệt thòi khác, con người được quyền
tự do chọn cho mình cửa rộng – còn rộng thênh
thang nữa kia! – còn ngược lại, sẽ
được vào cửa hẹp.
Nói cách khác, con người hoàn toàn tự do
khi yêu hoặc ghét, Chúa không hề ngăn cấm hay bắt
buộc, Người chỉ khuyên bảo, nhắc nhở
thôi. Có lẽ cũng nhờ thế mà trong cuộc sống
vẫn còn nhiều thật nhiều những con
người sẵn sàng quyết tâm chọn cho mình cửa
hẹp. Thế thì tại sao lại cứ đưa cái
tự ái lố bịch của mình lên quá cao như thế?
Vâng, hãy bình tâm lại mà “xoay
cái nhìn ra khỏi cái tôi”, để thấy được
rằng mình đã “nhận” quá nhiều từ Thiên Chúa,
kể cả của anh em đồng loại. Vậy
tại sao lại cứ khép chặt cửa lòng, bịt
chặt miệng túi, mà không biết đem chia sẻ
với anh em những gì mình đã được nhận?
Hãy nhớ rằng, nếu bản thân có đem “cho” anh em cái
gì thì cái đó cũng chẳng phải là của riêng mình, mà
là của Thiên Chúa đã ban cho, vậy đâu có mất mát
thiệt thòi gì mà cứ phải ca cẩm? Vâng, Lời Chúa
còn rành rành ra đó: “Anh em đã được cho không, thì
cũng phải cho không như vậy.” (Mt 10, 8).
Như vậy là đã rõ, Đức Giê-su
không bãi bỏ Lề Luật, “dù một chấm một
phết cũng không thay đổi”, mà Người chỉ
“kiện toàn”. Nói cho dễ hiểu hơn thì Lề Luật
vì do con người soạn thảo nên chưa đầy
đủ, chưa nêu bật được cái cốt lõi
của vấn đề (giữ Lề Luật để
phụng thờ, tôn vinh Thiên Chúa). Vì thế, Người
mới dùng cách nói “Luật dạy rằng… Còn Thầy,
Thầy bảo cho anh em biết…” để các môn
đệ hiểu được rằng những
điều Lề Luật dạy chỉ là những “lý
lẽ”,
những “tư tưởng của loài người”, và
cần phải nhìn vấn đề theo “tư
tưởng của Thiên Chúa”, đó là “điều quan
trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành
tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các
điều kia thì không được bỏ.” (Mt 23, 23). Và
cũng vì “điều quan trọng nhất trong Lề
Luật là công lý, lòng nhân và thành tín”, nên sau 5 lời khuyên
“Đừng”, thì tiếp liền theo đó, Đức Ki-tô
lại khuyên “Nên” (“Phải yêu kẻ thù”). Thay vì “lấy oán
báo oán (“dĩ oán báo oán”) thì hãy lấy ơn báo oán (“dĩ
đức báo oán”).
Cả 6 điều khuyên bảo
“Đừng” và “Nên”, xét cho thấu đáo, đều
nằm trong luật yêu thương, mà ở đây là
Luật yêu thương của Thiên Chúa (vô hạn) chớ
không phải của con người (hữu hạn). Nói
về luật yêu thương thì chính là nói về nguyên lý
tình yêu, nguyên lý ấy xuất phát từ Thiên-Chúa-Tình-Yêu.
Vâng, kể từ khi Thiên Chúa dựng nên vũ trụ, muôn
loài, thì đã vì tình yêu mà Người dựng nên loài
người và đặt làm chủ mặt đất. Con
người đầu tiên được sinh ra chỉ có
một mình, Thiên Chúa lại thương "Con
người ở một mình thì không tốt" (St 2, 18),
nên ban cho một người bạn khác giới tính
để từ đó có thể sinh sôi nảy nở cho
đầy mặt đất. Sự đối kháng
giới tính không nhằm loại trừ nhau mà là bổ túc
cho nhau, hỗ trợ nhau nên hoàn thiện. Cũng vì tình yêu,
không những Thiên Chúa dựng nên con người giống
hình ảnh Người, có nam có nữ, mà Người
lại ban cho con người một đặc ân là
được tự do đến gần như tuyệt
đối. Cũng vì được tự do như
vậy, nên con người đã vượt qua giới
răn của Thiên Chúa mà phạm tội. Sau khi phạm
tội, con người vẫn không bị trách phạt;
chẳng những thế, còn được Thiên Chúa ban Con
Một xuống thế để cứu chuộc,
để giải thoát con người khỏi ách thống
trị của tội lỗi và đem lại đời
sống vĩnh cửu. Nếu không vì tình yêu, thì Thiên Chúa có
đối xử với con người như vậy
không?
Nói tóm lai, bản chất con người
vốn dĩ là thích yêu hơn bị ghét, và nếu có yêu thì
chỉ thích yêu mình hơn cả. Còn oái oăm hơn nữa
là khi thù ghét người khác thì lại không muốn
người ta thù ghét mình. Nếu không vì thế, các bậc
thánh hiền đã không mất công truyền dạy “Kỷ
sở bất dục, vật thi ư nhân” (điều mình không
muốn thì đừng làm cho người khác), “ái nhân
như ái thân” (yêu người như yêu mình). Thiên Chúa thì còn
hơn thế nữa, tình yêu Người dành cho nhân
loại đã lên tới tuyệt đỉnh: Người
đã ban cả Con Một làm giá chuộc muôn người vì
tình yêu. Và chính Con Một Thiên Chúa – Đức Giê-su Ki-tô –
luôn luôn day: "Vậy tất cả những gì anh em
muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm
cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là
thế đó" (Mt 7, 12); “Anh em hãy yêu thương nhau,
như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12); “Ở
điểm này, mọi người sẽ nhận biết
anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu
thương nhau” (Ga 13, 15).
Ôi! Lạy Chúa! Chúa đã dựng nên con, đã
ban cho con một tấm lòng, một trí khôn biết phân
biệt thiện ác, biết yêu và ghét, và nhất là đã ban
cho con sự tự do tuyệt đối, để con có
thể tự quyết định cuộc đời
của mình bằng cách lựa chọn một con đường.
Con đã sai lầm trong lựa chọn để chỉ
biết yêu mình trên hết, co mình vào cái vỏ ốc “ích
kỷ”
đến độ có thể “hại nhân” (“ích kỷ
hại nhân”: lợi mình hại người). Xin Chúa đoái
thương, ban cho con một tâm hồn quảng
đại, một tấm lòng bao dung độ
lượng; xin cho con biết yêu người như yêu
chính mình, biết coi tất cả mọi người
(kể cả những người thù ghét con) đều là
anh em một nhà (“tứ hải giai huynh đệ”), cùng
con một Cha trên trời.
Ôi! “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết
mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.
Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa,
để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem
thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi
tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Để con đem tin kính vào nơi ghi nan, chiếu trông
cậy vào nơi thất vọng. Để con dọi ánh
sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến
chốn u sầu. Lạy Chúa xin hãy dạy con, tìm an ủi
người hơn được người ủi an,
tìm hiểu biết người hơn được
người hiểu biết, tìm yêu mến người
hơn được người mến yêu. Vì chính khi
hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên
mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là
khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui
sống muôn đời. Ôi Thần Linh thánh ái! Xin mở
rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng
đầy thiện chí, ơn an bình.” (TCCĐ Kinh Hoà Bình).
Amen.
|