Hãy nên trọn lành
như Cha trên trời
(Suy
niệm của Lm. Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Sang phần hai của đoạn chính 5,21-48, Chúa Giêsu chuyển sang nói về cách hành
xử của bản thân người môn đệ,
đặc biệt đối với những người
chống lại mình/kẻ thù: - Đừng thề (5,33-37),
- Đừng chống lại người ác (5,38-42), - Yêu
thương kẻ thù (5,43-48).
Đừng
chống lại người ác (5,38-42)
Câu mở đầu (c. 38) hoàn toàn
giống với 5,43, và giáo huấn
của Chúa Giêsu ở dạng phủ định giống với
câu ở phần trước: mè
+ động từ nguyên mẫu (c. 34). Các câu
giải thích (cc. 39b-42) gồm hai phần đối
xứng nhau với hai thí dụ cụ thể ở mỗi
bên. Luật Cựu ước “mắt đền
mắt và răng đền răng” (Xh 21,24,
Lv 24,20; Đnl 19,21) nhằm hạn chế việc
đổ máu do không kiềm chế nỗi sự hận
thù. Lamech hãnh diện với vợ mình “Nếu Cain trả
thù bảy lần, Lamech trả thù bảy mươi
lần” (Kh 4,23-24). Luật
nầy đòi hỏi trách nhiệm trong việc gây thiệt
hại, và giữ sự quân bình giữa tội ác và hình
phạt. Trong Tân ước còn tìm thấy cách diễn
tả tương tự với luật nầy (Mc 8,38, 1Cr 3,17).
Chúa Giêsu cấm sự đánh trả
người làm điều ác: “Đừng chống trả
người ác” (c. 39). Động từ anthistèmi, “chống lại”, hàm
ý sự thiệt hại do người ác gây nên.
Người ác, ponèros,
tương đương với kẻ thù, echthros, với người
bắt bớ, làm sỉ nhục (x. 5,11).
“Không chống lại người ác” nghĩa là không
để mình bị vướng vào vòng lẩn quẩn
của sự ác: bạo lực sinh ra bạo lực;
một cái răng của mình bị mất đi phải
đòi lại một cái răng của người khác.
Mức độ đầu tiên là bất bạo
động: “Khi Ngài bị sỉ nhục, Ngài không sỉ
nhục lại” (1Pr 2,23). Mức
độ kế tiếp cao hơn sẽ là yêu mến
người làm điều ác (5,44-45; 1
Thess 5,15). Chúa Giêsu đưa ra bốn minh họa về
sự bất bạo động:
- Bị đánh vào má (c. 39b), rhapizò,
là hành vi hạ nhục và khinh dễ
hơn là làm cho đau về mặt thể lý. Việc
đưa cả hai má phải và trái cho người ác
chỉ việc hoàn toàn không chống trả và sẵn sàng
chịu mọi sự sỉ nhục không do lỗi mình;
người tôi tớ trong Isaia cũng đã làm như
thế, “Tôi đã không che mặt” (Is 5,5-6;
x. Gióp 16,10). Chúa Giêsu đã bị đánh vào má trước
mặt các thượng tế và Công nghị vì Ngài bị
cho là phạm thượng; do đó đáng phải chết
(26,67).
- Bị đoạt áo (c. 40): bối cảnh của
đoạn nầy là việc thưa kiện ở toà án
để đoạt lấy áo, “muốn kiện”, theolonti krithènai (c. 40; x. 18,30). Người bị kiện
là một người nghèo tận cùng. Người
nầy phải vay nợ để sống và không có gì
để trả nợ. Chủ nợ chỉ có
thể lấy áo trong, chitòn
để trừ nợ, chứ không được
lấy áo ngoài, mặc dù áo ngoài có giá trị hơn (x. Mc 13,16). Theo luật pháp thời ấy, chủ
nợ không được cầm giữ áo ngoài như
vật thế chấp, và nếu có lấy áo ngoài thì
buộc phải trả lại áo cho người nghèo
trước khi mặt trời lặn, vì áo ngoài/áo choàng dùng
để làm chăn đắp ban đêm (Xh 22,25-27; Đnl
24,12-13). Đứng trước người
không có lòng xót thương, người nghèo có thể
bị lột trần trước mặt mọi
người. Ngay cả khi bị như
thế, Chúa Giêsu dạy đưa luôn áo ngoài cho họ.
Chúa Giêsu đã bị lột áo, cả áo trong (Ga 19,23) lẫn áo ngoài (27,31.35), và nên trần
truồng hoàn toàn trên thập giá.
- Bị ép phục dịch (c. 41): động từ angareuò, “bắt ép”,
mượn từ tiếng Persian. Angaroi là những
người đưa thư. Những
người nầy đứng tại các trạm ở các
địa phương do vua xứ Persian chỉ
định. Họ sẵn sàng với con ngựa để
chuyển thư từ trạm nầy
qua trạm kia để chuyển thư thật nhanh
đến đích. Ở đây từ angareuò nầy chỉ sự ép
buộc đi một hành trình, mang một vật nặng
hay làm một việc phục dịch nào đó do quân
đội hay các viên chức trên một hay nhiều người,
như trường hợp Simôn người Xirênê bị
quân lính Rôma ép vác thánh giá với Chúa Giêsu (27:32).
- Cho và vay mượn (c. 42): Câu nầy vẫn còn nằm trong
văn mạch của mệnh lệnh: "Đừng
chống lại người ác” (c. 39a), và người môn
đệ vẫn còn là nạn nhân của bạo lực hay
bất công. Theo cấu trúc, câu nầy đối xứng và
song song với câu 40a: tò +
phân từ + ngươi + động từ. Động
từ “muốn + vay mượn”, thelò, trong câu nầy mang ý nghĩa tương
tự như trong câu 42 là muốn vay mượn tài sản
của anh em trong đó hàm ý việc đoạt lấy; so
sánh câu nầy với câu song song trong Lc 6,30: “Tất cả
ai xin, hãy cho, và kẻ đoạt của ngươi,
ngươi chớ đòi lại”. Hơn nữa, câu
nầy liên kết với đoạn theo sau 5,43-48
bởi từ ponèros,
“người xấu” (cc. 39,45), trong đó nói về việc
yêu thương kẻ thù. Đây là minh họa
đi trước cho việc yêu thương kẻ thù.
Việc giúp đỡ và cho vay mượn được
nói rất nhiều đến trong Cựu ước, mà
đối tượng nhắm đến thường là
người nghèo (Xh 22,25; Lc 25,36-37;
Đnl 15,2-6). Ở đây Chúa Giêsu đưa ra một nguyên
tắc tổng quát và không phân biệt người
được cho và cho vay: “Ai xin, ngươi hãy cho. Ai muốn vay, ngươi chớ khước
từ” (c. 42; x. 5.45), trong đó bao hàm cả người
ác/xấu. Vậy qua đoạn 5,38-42
Chúa Giêsu muốn chúng ta giữ mình tự do khỏi mọi
hình thức bạo lực. Quyền xét xử
và báo oán là của Thiên Chúa (Rm 12:19-21). Phần người môn đệ
của Chúa là “không lấy oán báo oán, mà theo
đuổi điều thiện cho nhau và cho mọi
người” (1 Thess 5:15).
“Yêu
thương kẻ thù” (cc. 43-48)
Sự công chính của người môn
đệ được thể hiện ở mức
tối đa là yêu thương kẻ thù. Hành vi yêu
thương nầy làm họ nên giống Cha trên trời là
Đấng trọn lành (5:48)
và là Đấng công chính (6:33),
và cũng làm cho họ trổi vượt hơn các kinh
sư và người Pharisêô về sự công chính (5:20). Đoạn nầy có
cấu trúc giống như các đoạn trước, và
thêm lời kết luận cho toàn phần 5:21-48. Từ ngữ chính trong
đoạn nầy là agapaò,
“yêu thương” (cc. 43.44.46[2x]) và echthros, “kẻ thù” (cc.
43.44).
Cựu ước nói cách rõ ràng việc
yêu thương người lân cận. Người lân
cận được định nghĩa là người
đồng hương Israel, mặc dù cũng có thể nới
rộng định nghĩa nầy ra cho người
ngoại quốc đến ngụ cư (Lv 19:18, 33-34;
Đnl 10:18-19). Trái lại, không thấy Kinh Thánh nói cách
hiển nhiên việc ghét kẻ thù, mặc dù có thể suy
diễn từ một số đoạn (x. Đnl 7:2;
20:13–18; 25:17–19; Tv 137:8–9; 139:19–22). Đối lại với
câu chủ đề gồm hai mệnh đề, Chúa Giêsu
cũng đưa ra một câu gồm hai mệnh
đề: “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện
cho người bắt bớ các con” (c. 44). Hai mệnh
lệnh đều ở ngôi thứ hai số nhiều và
thì hiện tại, chỉ sự áp dụng chung
cho các môn đệ của Chúa Giêsu và cho mọi thời. “Kẻ
thù” theo mạch văn là người
bắt bớ (c. 44b), người xấu (c. 45). Họ
sỉ nhục, vu khống, đặt điều nói
xấu đủ điều các môn đệ (x. 5:10-11), họ làm những điều
bất công (x. 5:38-42);
do đó việc ghét kẻ thù là điều thường
tình đối với người đời. Trái lại Chúa
Giêsu dạy phải yêu thương kẻ thù theo
mẫu gương của Cha trên trời. Ngài
“cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ lẫn
người lành” (c. 45; x. 22:10). Ngài làm điều tốt
cho cả hai mà không phân biệt (x. Rm 212:20-21). Matthêô
dùng từ ponèros,
“người xấu” thay vì echthros, “kẻ thù”, trong câu liên
quan đến Thiên Chúa, vì “kẻ thù” thật sự của
Thiên Chúa là ma quỉ; chắc chắn là Ngài không “cho mặt
trời mọc lên” trên kẻ thù nầy, mà đặt nó
dưới bệ chân Ngài (13:25tt, 22:44). Trước khi
đi đến kết luận, Chúa Giêsu đưa ra hai
minh hoạ về cách yêu thương mà người môn
đệ không nên noi theo, “Nếu chỉ
yêu thương…”, “Nếu chỉ chào hỏi…” (cc. 46-47), bằng không họ sẽ không công
chính hơn người thu thuế và dân ngoại chút nào
cả. Tính từ so sánh “hơn”, perisson,
ở đây đóng khung đoạn 5:21-48, và liên quan
đến sự công chính của các môn đệ (c. 20).
Vậy ai hành động như Thiên Chúa thì sẽ nên con cái
của Ngài, và con cái của Ngài phải là người xây
dựng hoà bình, chứ không lấy ác báo ác (5:9).
“Nên
trọn lành như Cha trên trời” (c. 48)
Từ quan trọng của câu kết
luận là teleios, “trọn lành”, nghĩa là đi đến
cùng và không còn thiếu gì cần thiết nữa. Matthêô dùng 3 lần từ
nầy và qui chiếu về Thiên Chúa. Trong 19,21, sự trọn lành mà Chúa Giêsu chỉ cho
người thanh niên là tuân giữ lề luật Chúa,
từ bỏ của cải và theo Chúa. Trong câu 5,48 sự trọn lành trước tiên quy
chiếu về lề luật đã được Chúa
Giêsu làm trọn (5,21-48), và cũng qui chiếu về Chúa Cha:
“như Cha…” (c. 48b). Liên
từ “như”, hòs, chỉ
phẩm tính thuộc về Thiên Chúa. Vậy việc
“nên trọn lành như Cha trên trời” được
đặt trong tương quan Cha - con, “Cha trên trời” (c.
48) - “con cái Cha trên trời” (c. 45): sự trọn lành của
con cái bắt nguồn từ sự trọn lành của Cha
và có cùng phẩm tính là yêu thương, và tình yêu của Cha
thể hiện qua việc “cho mặt trời mọc lên
trên kẻ dữ và người lành” để nêu
gương, thì con cái cũng bắt chước
gương Cha mà làm như vậy: làm điều tốt
cho người khác vì yêu thương. Chúa Giêsu
đến để kiện toàn mọi lề luật.
Ngài đã dạy cho các môn đệ một cách cư
xử mới trong tương quan với người
bất hòa, phụ nữ, bản thân, người làm ác và
kẻ thù. Cao điểm của cách cư
xử nầy là làm điều tốt và yêu thương
họ như Cha trên trời và cũng như Chúa Giêsu.
Đó là con đường trọn lành mới mà Ngài
muốn con người bước vào.
|