Thứ bậc các giá
trị theo Đức Giêsu.
(Chú
giải của Lm FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Chúng ta đang ở
trong Bài Giảng trên núi (Bài diễn từ thứ nhất
của Tin Mừng Mt). Hôm nay, chúng ta đi vào Phân
đoạn chính, có thể gọi bằng nhan đề
“Sự công chính của Nước Trời hay là Sống
như con cái của Chúa Cha” (5,17–7,12). Riêng bản văn
được đọc hôm nay (5,17-37) thuộc về
phần đầu của phân đoạn này, mộtphân
đoạn được các nhà chú giải mệnh danh là
“Đức công chính dồi dào” (5,20-48). Bản văn nói
đến bốn cặp đối nghĩa ( trong số
sáu cặp đối nghĩa: 5,20-48).
Phần này như
đang ngầm trả lời một số câu hỏi:
Những việc tốt nào phải rạng sáng lên nơi
các môn đệ Đức Giêsu? Qua những việc
tốt lành này, cách thức hiện hữu nào của Cha trên
trời được người ta biết đến?
2.- Bố cục
Bản văn có
thể chia thành hai phần:
1)
Đức Giêsu mạc khải ý
muốn của Thiên Chúa (5,17-20);
2)
Đức Giêsu dạy về cách cư
xử với người thân cận (5,21-48)
a.
Các hành động trực tiếp làm
cho người thân cận (5,21-37):
-
các xung đột với người
thân cận (5,21-26),
-
cách cư xử đối với
phụ nữ (5,27-32),
-
tương quan với sự thật
(5,33-37),
b.
Các phản ứng trước cách
cư xử của người khác (5,38-48).
Bản văn dùng
trong Phụng vụ hôm nay không đọc đoạn 2.b).
3.- Vài điểm chú giải
- Luật Môsê hoặc
lời các ngôn sứ (17): Đây là cách người Do
Thái gọi bộ Kinh Thánh của họ (tức Cựu
Ước theo quan điểm Kitô giáo). Xem 7,12; 11,13; 22,40.
- kiện toàn (17): Khi
nói về mộtlời nói hay mộtlời loan báo, plêroô có
nghĩa là “hiện tại hóa”; khi nói về mộtlệnh
truyền, plêroô có nghĩa là “thi hành”. Mt dùng động
từ này (plêroô / plêrôsai) 16 lần, mà có 12 lần là
để đưa vào các câu trích Kinh Thánh. Các đoạn
văn Kinh Thánh ấy được coi như
được hiện tại hóa trong biến cố Giêsu,
vì biến cố này vén mở cho thấy mộtý nghĩa
mới của bản văn. Đức Giêsu khẳng
định rằng Người hoàn tất Kinh Thánh, có
nghĩa là Người đưa Kinh Thánh dến chỗ
hoàn chỉnh, đạt ý nghĩa trọn vẹn.
Người thực hiện Kinh Thánh không phải bằng
cách “thi hành” những khoản luật sát mặt chữ,
nhưng bằng cách vượt quá Kinh Thánh, đưa
lại cho Kinh Thánh mộtý nghĩa mới (x. cc. 20-48).
Như thế, câu 17 khẳng định có sự tiếp
nối sâu xa từ Cựu Ước sang Tân Ước,
đồng thời cho thấy Tân Ước vượt
quá những giới hạn và những bất toàn của
Cựu Ước.
- một chấm một
phết (18): dịch sát là “không mộtchữ i
hoặc mộtcái sừng”, tức là con chữ yod trong
bảng chữ cái Híp-ri. Đây là con chữ nhỏ
nhất.
- ai bỏ … ai dạy … ai
tuân hành (19): Câu này khiến ta có thể giả
thiết là trong Hội Thánh sơ khai có nhiều khuynh
hướng hoặc phong trào thiêng liêng liên hệ
đến việc tuân giữ Luật mới.
- không ăn ở công chính
hơn các kinh sư (20): dịch sát là “sự công chính
của anh em không dồi dào/vượt (perisseuein) hơn
(pleion, “more”) các kinh sư.
- ngoại trừ
trường hợp hôn nhân bất hợp pháp (32):
“ngoại trừ trường hợp porneia” (x. 19,9). Có hai
cách giải thích từ porneia này: (1) Đây là những
nố hôn nhân bất hợp pháp, chẳng hạn do họ
máu, mà Luật Môsê cấm (Lv 18,6-18). Các kinh sư gọi các
hôn nhân này là zơnouth, Bản LXX dịch là porneia. Bởi vì
các hôn nhân loại này không thành pháp, nên hai người
phối ngẫu phải rời xa nhau. Đây là cách giải
thích của giới Công giáo. Nhưng có những tác giả
cho rằng có thể áp dụng nghĩa ấy cho Cv 15,20,
chứ ở trong Mt thì không có gì chắc chắn cả. (2)
Hiểu porneia theo nghĩa thông thường là sự hư
đốn về tính dục, tức ngoại tình (moikeia).
Đây là cách giải thích của Tin Lành và Chính Thống, và
mộtsố tác giả Công giáo.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu
mạc khải ý muốn của Thiên Chúa (17-20)
Trong Cựu
Ước, Thiên Chúa cho biết ý muốn của Ngài qua
Luật và các ngôn sứ: những gì chính Ngài muốn
thực hiện (sấm ngôn và lời hứa: x. 11,13) và
những gì loài người phải làm (Luật).
Đức Giêsu tuyên bố rằng ý nghĩa của
việc Người ngự đến, của tư cách
của Người là Đấng được Thiên Chúa
cử đến, là đưa Luật và các ngôn sứ,
mạc khải về ý muốn của Thiên Chúa, đến
chỗ hoàn tất. Không có gì trong Luật và các ngôn sứ
lại bị triệt tiêu và loại bỏ, mà cũng
chẳng phải chỉ được xác nhận trong hình
thức cũ. Đức Giêsu đưa đến sự
hoàn tất; nơi Người, Thiên Chúa thực hiện
lời Ngài đã hứa (x. 1 ,22t; 2,15…). Như thế,
Đức Giêsu chính là Nhà Lâp pháp đích thật mà Thiên Chúa
đã cử đến cho loài người mọi thời;
so với Người, Môsê chỉ là người tiền hô
thôi. Qua Người, Thiên Chúa cho thấy cách vĩnh viễn
họ phải sống như thế nào. Lề Luật
chưa được kiện toàn không phải vì nó không
diễn tả ý muốn của Thiên Chúa, nhưng vì diễn
tả cách bất toàn hoặc cách không thích đáng.
Điều Ngài
đã yêu cầu qua Luật và các ngôn sứ được
gom lại thành điều này: “Tất cả những gì anh
em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy
làm cho người ta” (7,12), và có thể được tóm
lại trong điều răn yêu mên Thiên Chúa và yêu
thương người thân cận (22,37-40). Đức
Giêsu nêu bật rằng, trước mọi sự, Thiên Chúa
muốn lòng từ bi thương xót (9,13; 12,7). Với các
“cặp đối nghĩa” (5,21-48), câu “Còn Thầy,
Thầy bảo anh em” được nhắc lại 6
lần (5,22.28.32.34.39.41), qua đó Đức Giêsu nói với
uy quyền của Thiên Chúa, để giải thích đâu là
lối cư xử phù hợp với ý muốn của Thiên
Chúa. Ngài muốn họ phải sống mộtsự công
chính “dồi dào” hơn các kinh sư và người Pharisêu
(5,20).
Vì Đức Giêsu là
Đấng truyền đạt vĩnh viễn ý muốn
của Chúa Cha, ta không thể không cần đến
Người. Cuộc sống cá nhân phải hình thành từ
các giáo huấn của Người. Ta thuộc về
Nước Trời hay không là tùy ta tuân giữ sự công
chính Người đã dạy hay không.
* Đức Giêsu dạy
về cách cư xử với người thân cận(21-37)
Trong các giáo huấn,
Đức Giêsu quan tâm đặc biệt tới ba
đề tài: các xung đột với người thân
cận, cách cư xử đối với phụ nữ,
tương quan với sự thật. Cứ mỗi
lần, Người lại đặt giáo huấn của
Người đối lập với giáo huấn của
Cựu Ước. Các luận điểm Người
đưa ra phải được hiểu như làm mẫu,
chứ không phải là những trình bày rốt ráo về các
đề tài.
Đoạn 5,21-26
liên hệ đến việc thắng vượt các xung
đột. Chỉ đến c. 26, ta mới biết
đây là thứ xung đột gì: mộtchủ nợ không
kiên nhẫn được nữa, đã muốn
đưa con nợ ra tòa để ép người ấy
trả nợ. Loại xung đột này là điển hình
cho mọi thứ căng thẳng và cho các lối xử
sự phát xuất từ đó. Theo cách triệt để
nhất, người ta giải quyết mộtxung
đột bằng cách loại trừ người kia.
Cựu Ước đã kết án cách xử sự này
bằng lệnh cấm: “Không được giết
người”. Cách giải quyết xung đột kiểu
này là sai; để chứng tỏ như thế, luật
pháp đã quy định hình phạt xử tử. Nhưng
có những hình thức xử sự khác khi có xung
đột: nổi giận, thù hằn sâu sắc và sỉ nhục,
tấn công hay đả thương bằng lời nói.
Đức Giêsu kết án cả các kiểu cư xử này.
Phải tránh không những hành vi xấu xa, mà cả sự
xấu xa trong tim và những lời nói xấu xa.
Đừng để xung đột đẩy tình yêu ra
khỏi con tim, đầu độc con tim, hoặc
đưa đến chỗ đầu độc cộng
đoàn bằng những lời độc địa.
Đức Giêsu nhắc đến các tòa án để
cảnh giác; Người nhắc theo thứ tự tăng
dần: từ tòa án địa phương, đến tòa
án cao nhất ở trần gian (Thượng Hội
Đồng), và cuối cùng là tòa án của Thiên Chúa. Ở
đây Đức Giêsu không hề muốn công bố
mộtquy định pháp lý phải theo sát mặt chữ:
trong trường hợp nổi giận thì phải theo cách
này mà tính; trong trường hợp chửi bới thì
phải theo cách kia… Người muốn nói rằng sự
thiếu sót đối với người thân cận và
giải pháp sai lầm người ta lấy trong các xung
đột không chỉ bắt đầu với việc
giết người, nhưng bắt đầu
trước đó. Người muốn nói người ta
phải ra sức tránh không những hành vi xấu xa, mà
cả trái tim xấu xa và lời nói xấu xa. Người
cũng muốn nói rằng các xung đột và căng
thẳng không làm suy yếu tình yêu đối với
người thân cận ở bất cứ mức
độ nào và bất cứ cách nào.
Phải chứng
tỏ tình yêu này không những trong việc ngăn cản
sự dữ, mà còn trong việc tích cực tìm hòa giải.
Người vừa nói đến việc tránh để
cho các xung đột kịch phát. Bây giờ bằng các ví dụ
(5,23-25), Đức Giêsu trình bày hình thức tích cực nên
theo để vượt qua các xung độ, đó là
sự hòa giải, và Người nêu bật ý nghĩa
của việc hòa giải. Để hòa giải,
Người nói thậm chí phải ngưng dâng lễ
vật, điều này cho thấy tầm quan trọng, tính
ưu tiên của việc hòa giải. Nếu người ta
phải nhắm hòa giải cho được trong khi đi
đường tiến về tòa án, điều này cho
thấy hòa giải là chuyện cấp bách và cần
thiết, và bõ công để người ta ra sức
đạt cho được. Tiến trình mà Đức
Giêsu đề nghị để thắng vượt các
xung đột là tiến trình của tình yêu và hòa giải.
Dĩ nhiên, để hòa giải được, cần
phải có hai hoặc nhiều người, và không phải
chỉ cần mộtbên đồng ý là được: nó
giả thiết có sự sẵn sàng của cả bên kia.
Mỗi bên phải ra sức làm tối đa để
đạt được sự hòa giải. Phần nói
về đức công chính mới chính là mộttiếng
gọi duy nhất thúc bách người ta đi tới hòa
giải và tình bằng hữu với người thân
cận.
Đoạn văn
tiếp theo nói đến cách cư xử đối
với phụ nữ, đối với vợ
người khác (cc. 27-30) và với vợ của mình (cc.
31-32). Quyền lực chung quyết trong lãnh vực này không
thể nào lại là những sức mạnh tự nhiên và
bộc phát của ham muốn và khoái lạc tính dục.
Cựu Ước đã đặt ra mộtgiới
hạn rõ ràng cho các sức mạnh này, khi cấm ngoại
tình. Theo Lv 20,10, tội ngoại tình sẽ bị xử
tử. Cùng với sự sống của người thân
cận, người ta cũng phải tôn trọng vô
điều kiện sự hiệp thông sự sống
người đó có với vợ họ. Và cũng như
đối với sự sống của người thân
cận, ở đây Đức Giêsu cũng đặt
mộtgiới hạn thật ra đã có từ
trước và yêu cầu mộtsự tôn trọng sâu xa
hơn nữa. Sự tôn trọng này phải có không
những trong hành động mà cả trong ước
muốn. Đức Giêsu cũng đang xác định
mộtthứ bậc rõ ràng các giá trị. Nếu
trước đây, Người đã nói rõ là sự
giận dữ, chua cay, lời nói thâm độc… phải
luôn luôn nhường bước cho sự hòa giải và
hiệp thông huynh đệ với người thân cận,
thì bây giờ Người tuyên bố rằng không những
thú vui tính dục, mà cả các ước muốn tính
dục cũng cần được chế ngự,
nghĩa là vùng hiệp thông sự sống của
người khác không được vi phạm bất
cứ cách nào.
Lời khuyến
khích thà móc mắt phải và chặt tay phải cho thấy
giá trị này quan trọng đến đâu. Dĩ nhiên,
không được hiểu các lời này sát mặt
chữ: bởi vì không phải là con mắt phạm tội,
nhưng là con người với ý ngông và ý chí của mình!
Đức Giêsu muốn nói rằng chúng ta không được
bỏ mặc các giác quan của chúng ta cho chúng, nhưng
phải hướng dẫn cách sử dụng chúng cho có
trách nhiệm. Người cho thấy rằng bảo
vệ được các giá trị ấy không phải là
chuyện dễ, có khi phải chấp nhận những can
thiệp sâu xa và từ bỏ đau đớn. Nhưng
điều này rất quan trọng: chỉ khi ta tôn
trọng sự hiệp thông sự sống của
người khác, Thiên Chúa mới nhìn nhận chúng ta trong ngày
phán xét.
Liên hệ
đến cách cư xử với vợ người khác
và tôn trọng sự hiệp thông sự sống của
người khác, có việc cư xử đối với
vợ của chính mình và đối với sự hiệp
thông sự sống với vợ mình. Trong Cựu
Ước, có quy định là người ta có thể ly
dị vợ, nhưng phải có chứng thư ly dị,
để chứng tỏ rằng người phụ
nữ đã có mộttư cách dân sự mới, không còn là
người kết hôn nữa. Ở đây Đức Giêsu
cũng xác định một thứ bậc mới cho các
giá trị. Sự hiệp thông sự sống với vợ
mình là mộtđiều thiện hảo không thể chuyển
nhượng; người chồng phải bảo vệ,
duy trì và vun đắp sự hiệp thông ấy.
Người chồng không được rẫy vợ
mình: tương ứng với sự tôn trọng tuyệt
đối sự hiệp thông sự sống của
người khác là sự bảo vể tuyệt đối
sự hiệp thông sự sống với vợ mình.
Dưới ánh sáng của lệnh cấm rõ ràng không
được ly dị do Đức Giêsu công bố theo Mc
10,11t; Lc 16,18; 1 Cr 7,10t, câu thêm “ngoại trừ trường
hợp hôn nhân bất hợp pháp” không thể hiểu là
mộtngoại lệ. Đức Giêsu không muốn nói: anh
em không được rẫy vợ anh em trong bất
cứ trường hợp nào, ngoại trừ trong
trường hợp ngoại tình. Chữ “hôn nhân bất
hợp pháp” ở đây rất có thể có nghĩa là
những dây hôn bất hợp pháp do mộtquan hệ họ
hàng rất gần (Lv 18,6-18; x. Cv 15,29; 1 Cr 5,1). Giải
gỡ những dây liên kết này không phải là vi phạm lệnh
cấm ly dị.
Đề tài thứ
ba liên hệ đến sự thật (5,33-37). Trong lãnh
vực này, vấn đề phát sinh do sự kiện là
mỗi người lệ thuộc những khẳng định
của người thân cận, và đồng thời, chúng
ta là những con người, chúng ta không trong suốt
với nhau. Cá nhân không thể tự mình biết tất
cả những gì là quan trọng đối với mình
hoặc biết bằng sức riêng của mình;
người ấy lệ thuộc những khẳng
định và lời hứa của người thân
cận. Tuy nhiên những khẳng định này có thể
không tương hợp với các sự kiện và khác nhau
trong vô vàn sắc thái. Lời nói và mọi hình thái truyền
thông có thể được sử dụng không những
để truyền tải sự thật, mà còn để
lừa dối. Sự thiệt hại cho người thân
cận do những lời dối trá, lừa đảo và
không giữ lời hứa là không thể tiên liệu và
trầm trọng. Để ngăn chặn được
thiệt hại này, người ta thề. Nhưng bởi
vì ở đây cũng lại có thể phát sinh vấn
đề dối trá, mới có lệnh cấm nghiêm
khắc không được thề gian. Qua việc thề,
người ta muốn diễn tả là chính Thiên Chúa, là
Đấng tuyệt đối chân thật và chắc
chắn không lừa dối,c ó thể làm chứng cho sự
thật của lời khẳng định của chúng ta
hoặc sự khả tín của lời chúng ta hứa; do
đó người ta có thể tín nhiệm. Đồng
thời ai nại dến Thiên Chúa để làm chứng cách
dối trá, thì bị phạt. Việc nại đến
Thiên Chúa phải khiến người ta nói sự thật
và điều này khiến ta có thể tin tưởng
những ai lệ thuộc những khẳng định
này.
Ngược lại,
Đức Giêsu bảo “hễ "có" thì phải nói
"có", "không" thì phải nói "không"” (x. Gc
5,12) ; Người yêu cầu mộtdây liên kết vững
bền và trực tiếp với sự thật, không
cần nại đến bất cứ hình thái lời
thề nào. Thiên Chúa không có việc gì mà phải đóng vai
làm chứng và càng không đóng vai người hù dọa
kẻ khác bằng hình phạt. Thiên Chúa, Đấng
tuyệt đối chân thật và tuyệt đối
xứng đáng với niềm tin của ta, tỏ mình ra
như là điển hình cho chúng ta (x. 5,48). Nơi chúng ta,
không được có sự khác biệt giữa những
gì đang có trong thâm tâm ta dưới dạng kiến
thức, ý kiến, ý hướng… và những gì chúng ta
tỏ ra bên ngoài. Như thế ta công nhận sự
thật, và người thân cận tránh khỏi thiệt
hại.
+ Kết luận
Bằng uy quyền
đầy đủ của Người, Đức Giêsu
không áp đặt những luật võ đoán, nhưng cho
thấy mộtthứ bậc mới các giá trị. Mỗi
khuynh hướng ích kỷ duới dạng hiềm khích
hoặc không chấp nhận giao hòa, dạng các ước
muốn tính dục, tìm kiếm lợi lộc cá nhân qua
việc lừa dối, đều phải biến mất.
Mỗi cung cách xử sự phải phục vụ tình huynh
đệ với người thân cận, phục vự sự
hiệp thông sự sống, quan tâm bảo vệ sự
thật. Một cung cách xử sự như thế coi
người thân cận là anh em và chị em và thật
sự đưa họ về với Cha chung.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đọc bản
văn này, chúng ta nhận ra Đức Giêsu khẳng
định tư cách tối cao của Người,
Người là Thiên Chúa. Người có quyền trên
“Luật dạy người xưa”, tức chính Cựu
Ước, bởi vì Luật đó là bản văn Thiên
Chúa dùng trung gian con người mà viết ra, còn Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa, là Ngôi Lời, trực tiếp
đến dạy dỗ loài người. Chúng ta có thực
sự sẵn sàng đón tiếp Người chăng?
2. Những gì
Đức Giêsu đã nói không được hiểu như
là mộtdanh mục đầy đủ các quy
định, càng không phải là một luật phải theo
sát mặt chữ. Chẳng hạn, Người chỉ nói
đến cách cư xử của phái nam đối
với phái nữ, chứ không nói đến cách cư
xử của phái nữ đối với phái nam;
điều này không có nghĩa là phái nữ không có thiếu
sót gì trong lãnh vực này. Người không muốn nói
rằng ta chỉ phải tránh những kiểu cư
xử đã được nhắc đến minh nhiên.
Người đã nêu đặc tính của mộtthái
độ tổng quát, và ta phải dựa theo đó mà
cư xử trong lãnh vực liên hệ.
3. Đức Giêsu
đặc biệt giáo huấn về ba lãnh vực: các xung
đột giữa anh em, cách cư xử với phụ
nữ và tôn trọng sự thật. Chúng ta được
mời gọi xét lại cách chúng ta sống dưới ánh
sáng của ba giáo huấn này. Thiếu tôn trọng các nguyên
tắc của ba lãnh vực này, con người vừa
thiếu kính trọng đối với Thiên Chúa vừa
thiếu kính trọng đối với anh chị em mình.
Nếu chúng ta sống giáo huấn của Đức Giêsu,
chúng ta giữ được “Luật và các ngôn sứ”,
tức là giữ được nòng cốt giáo huấn của
Kinh Thánh.
4. Đây là
mộtđòi hỏi của Đức Giêsu với các môn
đệ: Họ phải có mộtlối sống “dồi
dào hơn” sự công chính của giới kinh sư và
Pharisêu. Đây là mộtsự trổi vượt về
“lượng”: các môn đệ phải “làm hơn”. Nhưng
“hơn” đây là đi xa hơn trong việc tuân giữ
cốt lõi của Luật (x. cc. 38-48: điều răn yêu
thương). Đây cũng là một sự trổi
vượt về “phẩm”: các môn đệ không hoàn tất
Luật theo cách vị luật, nhưng bằng con tim (Mt
23,25-28; x. 5,27-28), như những người con của Cha
trên trời (5,45-48).
|