Giáo
huấn chung của Tân Ước
(Trích trong
‘Giải Nghĩa Lời Chúa’ của Đức cố Giám
Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Phụng vụ Mùa
Thường niên không đề cao một mầu nhiệm
nào đặc biệt, nhưng chỉ trình bày giáo huấn
thông thường của Hội Thánh liên quan đến
đời sống hàng ngày của tín hữu. Hôm nay chúng ta
vừa được nghe một đoạn sách Huấn
ca, một khúc thơ Phaolô và một số lời Tin
Mừng theo thánh Mátthêô. Nếu được phép tổng
hợp, chúng ta có thể nói Lời Chúa hôm nay khuyên chúng ta hãy
lựa chọn đường lối khôn ngoan của Thiên
Chúa và đến với Đức Giêsu Kitô là Đấng
đang rao giảng sự khôn ngoan của Thiên Chúa cho loài
người.
A.
Chúng ta hãy lựa chọn đường lối khôn ngoan
Huấn ca là một tác
phẩm trong loại sách khôn ngoan của Thánh Kinh Cựu
Ước. Ngay trong đoạn trích đọc vắn
tắt hôm nay, người ta đã có thể nhận ra mấy
sắc thái chính yếu của tác phẩm cũng như
của loại sách Khôn ngoan này. Tác giả kêu gọi sự
tự do lựa chọn của con người. Không có
sự tự do, không thể nói đến triết học
và khôn ngoan. Do đó các sách khôn ngoan không có tính cách giáo
điều. Luôn luôn độc giả được kêu
mời tự do lựa chọn. Hơn nữa, hạnh phúc
mà người ta tìm kiếm nằm ngay ở tầm tay của
họ. Giơ tay nắm lấy cái gì, hạnh phúc hay
bất hạnh, thì người ta sẽ được
ngay cái đó.
Như vậy, tư
tưởng của Thánh Kinh không có gì là “định
mệnh” cả. Chính con người làm chủ vận
mạng của mình. Và điều này, ngay trang đầu của
bộ Kinh Thánh cũng đã khẳng định. Thiên Chúa
bấy giờ dựng nên Ađam-Evà. Người
đặt họ trong “vườn địa đàng” có
đủ mọi thứ cây ngon lành có thể thỏa mãn sự
thèm khát của con người. Nhưng giữa vườn
cũng có một cây “lành dữ”, mà nếu giơ tay bất
quả nó mà ăn, con người sẽ có kinh nghiệm mất
mát tất cả những gì đang có và bắt
được những gì ngược hẳn với
nếp sống hiện nay. Lúc này họ đang sống
trong tình giao hữu hạnh phúc với Thiên Chúa là nguồn
mọi sự sống. Bứt quả cây trái cấm mà
ăn, họ sẽ rơi vào tình trạng thù địch
với Người và nếm biết sự chết
đời đời. Ađam-Evà đã được
đặt trong tình trạng tự do để lựa
chọn tương lai cho mình và con cháu. Trái cây hạnh phúc
và bất hạnh ở ngay tầm tay của họ. Họ
có thể lựa chọn giữa sự sống và sự
chết, giữa “lửa và nước” như lời sách
Huấn ca hôm nay viết, bởi vì “lửa” là hình ảnh
về sức mạnh tiêu diệt, tàn phá và chết chóc, còn
“nước” lại nói lên nguồn mạch sinh ra sự
sống và sự sống dồi dào. Con người
muốn lựa chọn đàng nào cũng được.
Ađam-Evà đã lựa
chọn thế nào thì chúng ta ai cũng đã biết. Chúng ta
có thể tức vì tại hai ông bà đã chọn
điều dữ, nên loài người chúng ta ngày nay đang
sống trong tình trạng sa đọa. Nhưng ngay trong tình
trạng này, con người chúng ta vẫn có sự tự
do lựa chọn. Mặc nhiên, mọi người
đều tin như vậy. Chỉ mấy triết gia suy
đi tính lại tỉ mỉ quá mức mới dám hoài nghi:
không biết cuối cùng con người có còn tự do hay
không? Hay là họ đã nằm trong bàn tay của một “con
tạo đa đoan” và định mệnh của họ
đã được ghi khắc một lần thay vì
tất cả ngay cả từ trước khi họ sinh ra
ở đời. Hai câu cuối của bài sách Huấn ca hôm
nay phi bác mọi luận điệu như thế. Tác
giả viết: Thiên Chúa không truyền cho ai phạm
tội; Người không ủy lạo kẻ dối trá.
Ngược lại truyền thống Thánh Kinh luôn khẳng
định: vì là Đấng tốt lành, Thiên Chúa không
muốn ai phải chết: Người luôn ra tay cứu
độ; tất cả những gì Người làm chỉ
là hướng dẫn con người về
đường ngay nẻo chính để họ
được sống và được sống dồi
dào. Lựa chọn sự dữ và bất hạnh là
quyền lợi - nói đúng hơn, là quyền hạn -
của con người. Đúng hơn nữa, đó là
lạm dụng quyền tự do mà Thiên Chúa đã ban cho
mình.
Chúng ta có nhiều kinh
nghiệm về thái độ của nhiều người
khác. Rõ ràng họ được tự do hoàn toàn để
lựa chọn điều hay, hay là điều dở,
đặc biệt trong các quan hệ với chính chúng ta.
Chúng ta tạo mọi điều kiện để
giữa họ và ta có những tương quan thuận
lợi. Thế mà dường như có một cái gì như
cố chấp ở nơi họ. Mối tình giữa
họ và ta chẳng sao xây dựng được và khả
quan hơn. Tất cả, theo quan điểm của ta,
chỉ vì họ không muốn.
Có lẽ bài sách Huấn ca
đã đi từ kinh nghiệm ấy. Tác giả mở
đầu bằng mấy chữ “nếu muốn”. Nếu
muốn thì con người sẽ giữ lệnh truyền
của Chúa; và như vậy họ sẽ được
sống. Bằng không họ sẽ tra tay vào lửa và
lựa chọn sự chết. Tư tưởng của
Thánh Kinh vì thế đề cao sự tự do của con
người. “Từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên
họ và trao họ cho tâm thuật của họ” (Hc 15,14),
tức là để cho họ được tự do làm
theo ý mình. Tuy nhiên “Người biết hết mọi
sự và toàn năng. Mắt Người nhìn xuống
những kẻ kính sợ Người”
Thế nên sự khôn ngoan
của sách Huấn ca cũng như của tư
tưởng Kinh Thánh là con người hãy đi theo
đường lối của Thiên Chúa. Chính đó là sự
khôn ngoan. Con người giữ lệnh truyền của
Thiên Chúa sẽ chắc chắn đi trong đường
lối khôn ngoan dẫn đến sự sống, vì sự
“khôn ngoan của Thiên Chúa thật vạn năng”.
Chân lý này, người tín
hữu nào cũng công nhận. Khó khăn nằm ở
chỗ thực hành. Trong đời sống thực tế,
không phải lúc nào cũng dễ tuân giữ lệnh truyền
của Thiên Chúa. Chính dân Israel
ngày xưa cũng vậy. Mặc cho các tiên tri kêu gọi
họ trở về đường lối mà Chúa đã
vạch ra trong Luật pháp, họ vẫn đi theo
đường lối của họ. Nói đúng hơn,
họ muốn sống như mọi dân tộc khác và
khước từ cố gắng chu toàn ơn gọi làm
Dân Riêng của Chúa. Chúng ta, những kẻ ở trong Dân
Mới của Người, cũng không hơn gì họ.
Chính vì vậy mà chúng ta cần lắng nghe lời khuyên
bảo của thánh Phaolô.
B.
Sự khôn ngoan của Thiên Chúa
Thư 1 Côrinthô quen
được coi như thư riêng của người
Công giáo, theo nghĩa những người này thích
đọc nó như người Tin lành thường thích
đọc thư Rôma. Và quả thật, thư 1 Côrinthô có
nhiều yếu tố để nói với các cộng
đồng Công giáo. Nó có cả những đề tài,
như lời mở đầu đoạn trích đọc
hôm nay cho biết, dành cho những “người thành toàn”,
tức là những người đã tiến bộ trong
đức tin và đời sống tín hữu. Trong số
đó có đề tài về sự khôn ngoan mà bài đọc
I hôm nay đã đề cập.
Sự khôn ngoan của
đạo chúng ta, kể từ lời mạc khải
đầu tiên cho đến lời Kinh Thánh cuối cùng,
không phải là sự khôn ngoan của đời tạm này.
Càng không phải là sự khôn ngoan của những
đầu mục của đời tạm này. Nó là sự
khôn ngoan của Thiên Chúa, sự khôn ngoan mà các sách khôn ngoan
trong Thánh Kinh Cựu Ước thường đem ra bàn.
Tác giả sách Huấn ca đã thấy nó nằm trong các
lệnh truyền của Thiên Chúa. Và những tác giả khác
cũng đồng ý bảo nó nằm nơi Luật pháp mà
Chúa đã ban cho Dân Riêng của Người.
Tuy nhiên Luật pháp thì dài
và lệnh truyền thì nhiều. Hơn nữa dù vẫn
nghe Luật pháp và Tiên tri trong các ngày Hưu lễ nơi
Hội đường, người dân Israel
ngày xưa vẫn không nhận ra sự khôn ngoan của Thiên
Chúa. Dường như vẫn còn có một tấm màn che
mắt họ, khiến họ nghe đọc mà chẳng
hiểu, xem thấy mà chẳng nhận ra. Mãi đến khi
tấm màn trong Đền thờ rách toang ra vào Giờ Chúa
Giêsu chịu chết trên Thập giá, sự khôn ngoan của
Thiên Chúa mới tỏ hiện. Người ta mới
biết Đức Giêsu là ai. Người là Đấng
Cứu thế! Và Thiên Chúa đã muốn tỏ hiện
sự khôn ngoan của Người ở nơi Ngài: “Ngài là
Con Chí Ái của Ta, các ngươi hãy nghe Ngài”.
Chính vì vậy mà thánh Phaolô
viết rằng, sự khôn ngoan của Thiên Chúa vẫn
giữ kín từ đời đời cho đến lúc
bấy giờ. Trước đó người ta đã
được nghe nói về đường lối khôn
ngoan cứu độ của Thiên Chúa. Người ta
cũng đã thấy rất nhiều kỳ công mà
Người đã làm. Tuy nhiên tất cả như còn là
tiền ảnh và biểu tượng và như còn
được nói bằng “dụ ngôn”. Nhưng mọi
sự đã trở nên sáng tỏ và mới hẳn trong
mầu nhiệm của Đức Giêsu Kitô, cách riêng trong
biến cố Tử nạn - Phục sinh của
Người. Đứng trước mạc khải này,
những người được ơn khôn ngoan
nhất, cũng bàng hoàng như thể trong mơ. Không
vậy thì người Do thái đã không đóng đanh
Đức Giêsu; và ngay các Tông đồ đã không lấy
việc sống lại làm khó hiểu. Chỉ khi đã
chắc chắn về biến cố Phục sinh, các môn
đệ mới thấy Đức Giêsu là “Chúa”; họ
mới tuyên xưng Người là sự Khôn ngoan của
Thiên Chúa; họ mới thấy Luật pháp và Tiên tri
trước kia đã chỉ nói về Người.
Như vậy, sự khôn
ngoan của Thiên Chúa, sự khôn ngoan mang lại sự
sống và hạnh phúc đời đời cho con
người, không phải là Luật pháp và các Tiên tri,
nhưng là Đức Giêsu Kitô; mà cũng không phải là
Đức Giêsu Kitô như xác thịt cho biết, nhưng là
“Chúa” Giêsu Kitô trong ánh sáng đức tin mà mầu nhiệm
Tử nạn - Phục sinh của Người đã ban
cho. Nhờ ánh sáng tỏa ra từ mầu nhiệm này,
Luật pháp và Tiên tri mới minh bạch. Sự khôn ngoan
của Thiên Chúa giữ kín ở đó mới bộc lộ
ra. Từ nay đọc lên người ta mới hiểu rõ
vì họ đã nhận được Thánh Thần,
Đấng dò thấu mọi sự, cả những
chiều sâu thẳm nơi Thiên Chúa. Và Thánh Thần chỉ
được ban cho người ta sau khi Đức Giêsu
đã tử nạn-phục sinh lên ngự bên hữu Thiên
Chúa để tuôn đổ xuống cho những kẻ có
lòng tin.
Thế mà có những tín
hữu cứ muốn luận lý với những
người chưa có đức tin về đường
lối khôn ngoan của Thiên Chúa! Họ còn lầm hơn khi
dám so sánh đường lối của Thiên Chúa với
đường lối của thế gian. Lẽ ra họ
đã phải cầu xin trước cho người ta
được ơn đức tin. Họ phải lựa
chọn Chúa trước rồi mới thấy
được sự khôn ngoan của Người. Chính
điều này cũng cần phải có để nhận
ra ý nghiã của những lời Tin Mừng hôm nay mà Chúa
Giêsu, sự Khôn ngoan của Thiên Chúa, đang nói với chúng
ta. Người đang rao giảng sự khôn ngoan của
Thiên Chúa ở trong Hội Thánh. Chúng ta hãy nghe Người.
C.
Thiên Chúa nói sự khôn ngoan của Người với chúng
ta
Chắc chắn không nên tìm
trong đoạn này một bố cục chặt chẽ. Vì
đây không phải là một bài luân lý; nhưng chỉ là
mớ những lời dạy dỗ, có thể đã
được nói trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, mà tác
giả sách Tin Mừng đã lấy đặt đứng
bên nhau để làm thành một “bài giảng”.
Chúng ta có thể nhận ra
một số câu mở đầu. Đức Giêsu tuyên
bố: “Đừng tưởng Ta đến để bãi
bỏ Lề Luật hay các Tiên tri; Ta đến không
phải để bãi bỏ mà để làm trọn”.
Lời nói hết sức quan trọng. Lập tức, Chúa
Giêsu đã khẳng định Người là Đấng
phải đến trong thế gian, tức là Vị Cứu
thế mà Cựu Ước loan báo phải trông đợi.
Uy quyền của Người át cả Lề luật và
các Tiên tri. Tuy nhiên Người không phủ nhận và bãi
bỏ họ. Người kiện toàn họ. Thế nên
không được coi nhẹ một nét nhỏ nào trong
Luật pháp. Câu này không có ý nói lên bất cứ một chút
xíu nào trong khuynh hướng bảo thủ và vụ
luật. Nó muốn tăng cường sức mạnh cho
câu khẳng định ở trên: Ta đến không
phải để bãi bỏ mà để làm nên trọn. Và
cũng chính vì vậy mà người trong Dân Mới phải
công chính hơn các Ký lục và Biệt phái trong Đạo cũ.
Những người này nổi tiếng là những
người giữ Luật, thì những ai theo Đấng
đến làm cho Luật pháp nên trọn phải công chính
hơn.
Chẳng hạn Luật
xưa bảo: Chớ giết người! Thì nay,
Đấng đến làm trọn Lề luật truyền
lệnh không được tức giận anh em mình. Người
đòi hỏi một sự công chính lớn và sâu xa hơn.
Người làm “trọn” luật chớ giết
người, khi cấm ngay cả sự tức tối trong
tâm hồn. Hễ bất hòa với ai, người ta
phải mau mau hòa giải để có khả năng
thờ phượng, tức là để xứng đáng
ở lại trong Dân Mới của Thiên Chúa là Dân có bản
chất tư tế. Đàng khác người ta luôn phải
sợ có tâm hồn bất hòa như thế mà phải
gặp mặt Đấng Chí Công phán xét khi Người
bất thần kêu gọi họ ra khỏi đời này.
Người muốn môn đệ của Người luôn
sống trong trạng thái yêu mến, như Thiên Chúa là
Đấng Mến Yêu.
Một thí dụ khác,
Luật xưa dạy: Chớ ngoại tình! Nay Đấng
kiện toàn Lề luật đến, Người tuyên
bố: phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng
dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng. Và
Người truyền: con mắt nào có những cái nhìn
như thế, thì tốt hơn nên móc mà quăng nó đi. Vì
thà mất một chi thể còn lợi hơn là có cả
toàn thân mà bị xô vào hỏa ngục. Ý của Người
muốn người ta phải tiêu diệt tội lỗi
ngay từ trong lòng và nơi các nguyên nhân, điều
kiện dẫn đến tội lỗi.
Nhưng đã nói
đến ngoại tình, Người không thể mau lẹ
bỏ qua một thắc mắc đang sôi nổi ở
thời bấy giờ và có lẽ ở mọi thời, đặc
biệt ở thời đại chúng ta. Luật xưa nói:
ai rẫy vợ thì hãy cho vợ ly thư. Và ở nhiều
nơi luật đời hiện nay cũng cho ly dị.
Còn Chúa Giêsu, Đấng đến kiện toàn Lề luật
nghĩ thế nào?
Có lần Người
đã khẳng định: Xưa Môsê nói như vậy là vì
sự yếu đuối của con cái Israel,
chứ tự nguyên thủy không như vậy và những gì
Thiên Chúa đã kết hiệp, loài người không
được phân rẽ. Ở đây, trong đoạn
văn này, lập trường trên vẫn không thay
đổi, vì ai cưới người vợ ly dị là
phạm tội ngoại tình. Nhưng cũng vì con
người yếu đuối, và cũng để tôn
trọng chứ không phải bãi bỏ Luật xưa đã
cho phép, sách Tin Mừng Matthêô hôm nay viết: mọi kẻ
rẫy vợ - trừ phi là nố dâm bôn - là làm cho vợ
ngoại tình. Tác giả cho phép có một nố trừ. Các
nhà chú giải mặc sức tìm hiểu sự thật
nố trừ này là gì. Điều chắc chắn là ngoài
tác giả Matthêô ra, không một tác giả Tân Ước nào
khác cho phép có luật trừ trong việc cấm ly dị.
Sự kiện này cho phép chúng ta nghĩ rằng: trong toàn
thể Hội Thánh thời các Tông đồ, đâu đâu
cũng rao giảng giáo lý của Chúa tuyệt đối
cấm ly dị. Nhưng ở những môi trường
người Dothái theo đạo, người ta còn bám vào
Luật Môsê; người ta nại đến việc Chúa
không đến để bãi bỏ Lề luật; người
ta muốn được áp dụng Luật mới một
cách nhẹ nhàng... Có lẽ vì vậy tác giả Matthêô
viết sách cho những môi trường này, đã
đề cập tới một nố trừ nhưng
vẫn khẳng định tính cách vĩnh viễn của
hôn nhân. Nói theo danh từ của Giáo hội hiện nay, có
những trường hợp được ly thân nhưng
không được ly hôn vì ai cưới người
vợ ly dị là phạm tội ngoại tình. Tuy nhiên
muốn nói cho hết lẽ, chẳng bao giờ
được phép tựa vào một câu để đi
ngược lại với toàn bộ giáo huấn chung
của Tân Ước và giáo lý sống động của
Hội Thánh. Và điều này chúng ta cũng phải áp
dụng ở đây.
Chúa Giêsu đang dạy
dỗ dân chúng một cách sống động. Người
là sự khôn ngoan của Thiên Chúa đến với loài
người. Dân chúng không thấy Người nói như các
Luật sĩ và Biệt phái. Người có giáo lý mới
“mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe”.
Người kêu gọi lòng tin. Người ta
được tự do lựa chọn. Và bắt
đầu người ta phải tin Người. Đó
chính là điều mới lạ. Và cũng là điều
tồn tại mãi mãi trong đạo của Người,
đạo của chúng ta.
Ngay trong giờ phút này và
ở đây, chúng ta cử hành Thánh lễ. Đây là mầu
nhiệm đức tin. Chúng ta tự do lựa chọn thái
độ. Mầu nhiệm nằm ở tầm tay chúng ta,
theo nghĩa chúng ta có thể đón nhận với niềm
tin hay không. Và tùy đó, chúng ta sẽ lãnh nhận sự
sống của Thiên Chúa hay không. Chẳng sự khôn ngoan nào
của loài người giúp chúng ta làm được công
việc này. Chỉ có Lời của Chúa Giêsu Kitô, chỉ có
uy tín của Người là sự khôn ngoan của Thiên Chúa
khiến được chúng ta tin vào sự biến
đổi của bánh rượu. Và khi chúng ta đã lãnh
nhận Bí tích với niềm tin như thế, chúng ta
sẽ được gia tăng đức tin, đức
cậy và đức mến để thay đổi
cuộc đời hàng ngày của chúng ta, không theo sự
khôn ngoan của thế gian nữa, nhưng theo sự khôn
ngoan của Thiên Chúa đã được biểu lộ cho
chúng ta trong Lời Chúa và Mình Thánh Chúa mà chúng ta đón
nhận trong Thánh lễ này.
|