Hạnh Phúc
ơi, Mi là gì?
(Suy niệm
của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Cái tựa
đề bài viết có vẻ như là tựa đề
một khúc ca, một bản tình ca. Hẳn nhiên không
phải vô tình nhưng xin thú thực là có chủ ý. Kitô
hữu chúng ta, nếu là người trưởng thành và
được “xem là ngoan đạo” thì chắc chắn
thuộc nằm lòng kinh “phúc thật tám mối”. Mẹ Giáo hội đã minh nhiên khẳng
định rằng “tám mối phúc” chính là bản Hiến
Chương Nước Trời”. Dưới
một góc độ nào đó thì bản Hiến
Chương cũng gần tương tự với
bản Hiến Pháp của một quốc gia. Chúng ta
dễ dàng đồng thuận với nhau về tầm
quan trọng cũng như vị trí, vai trò tối
thượng của bản Hiến Pháp trong việc
định chế các luật lệ để điều
hành các tổ chức, sinh hoạt của một đất
nước. Vị trí, vai trò của bản Hiến
Chương trong các tổ chức xã hội lớn bé
cũng có tầm quan trọng không thể phủ nhận,
cho dù trong thực tế, có thế lúc này, lúc kia, nơi này
nơi nọ, việc tuân thủ không được
chặt chẽ và nghiêm túc.
Một ngộ
nhận thường thấy khi đề cập
đến các mối phúc của Tin mừng đó là
người ta dễ bị cám dỗ tìm cách giải thích,
biện luận và minh chứng vì sao khó nghèo là có phúc, vì sao
sầu khổ là có phúc… Trong khi đó hạnh
phúc thật mà Chúa Kitô loan báo không ở cái vế đầu
của câu nói mà ở vế sau. Để
hiểu rõ điều này xin đan cử câu chuyện
đã từng xảy ra về một ông lão nghèo hành
nghề bán vé số kiếm kế sinh nhai bỗng nhiên thành
tỉ phú. Một ngày kia, vé số
bán không hết, ông lão mệt quá nên không đem số vé
dư trả lại đại lý. Ai ngờ
có trong số vé dư ấy có một cặp mười
lại trúng giải độc đắc. Người ta bèn nói rằng ông lão bán vé số có
phúc vì trúng số độc đắc bạc tỉ.
Như thế cái được gọi là có phúc không
phải ở vế “làm nghề bán vé số” hay ở
vế “không trả lại số vé không bán được”
mà ở nơi vế “trúng giải độc đắc
bạc tỉ” kiểu như trên trời rơi xuống.
Vậy chúng ta
cần khẳng định rằng hạnh phúc thật
chính tình trạng được ở trong Nước
Trời, được có Nước Trời làm gia
nghiệp, được Thiên Chúa ủi an, thương
xót, được nhìn thấy Thiên Chúa, được
gọi là con Thiên Chúa, được Thiên Chúa ân
thưởng trên trời, nghĩa là các vế thứ hai
của các mối phúc. Các vế thứ
nhất của các mối phúc không phải là những
điều kiện để có hạnh phúc, nhưng
chỉ là những tình trạng được ban phúc,
những tình trạng đã đón nhận hạnh phúc được
ban.
Để
hiểu điều này chúng ta cần đối chiếu
với Tin Mừng thánh Luca. Các nhà nghiên cứu Tin Mừng
đồng thuận với nhau rằng thánh sử Luca
tường thuật các dữ kiện liên quan đến
các mối phúc thì sát thực tiển hơn so với Tin
mừng thánh Matthêu. “Đức Giêsu ngước mắt lên
nhìn các môn đệ và nói: ‘Phúc cho anh em là những kẻ
nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em
là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên
Chúa sẽ cho anh em được no lòng…”(Lc
6,20-23).
Hạnh
phúc thật là Nước Trời, là chính Thiên Chúa. Và Thiên Chúa đã đoái
thương ban hạnh phúc ấy cho tất cả mọi
người, cho cả những người mà dưới
con mắt thế gian hay theo nếp
nghĩ của con người là bất hạnh là kém cõi là
ngu dại, là kém phận… Thực tế cho thấy khi Chúa
Kitô đi rao giảng tin mừng, thì rất nhiều
người vốn bị xem như là bé phận, hèn
mọn đã biết mở rộng tâm hồn đón
nhận ân phúc Người ban. Trái
lại, có nhiều người mà thế gian cho là may
mắn thì không nhận được ân
phúc ấy, nói đúng hơn là họ đã chối từ
hạnh phúc được ban. Thánh sử Luca sau khi
tường thuật những lời chúc phúc của Chúa
Kitô thì tường thật tiếp liền những
lời cảnh báo về các mối họa với những
người giàu có, những người đang
được no nê, vui cười, đang được
mọi người ca tụng (x.Lc 6,24-26).
Những
hạng người này bị chúc dữ hay nói đúng
hơn là cảnh báo về tại họa không phải vì
họ giàu, đang được no nê hay vui
cười…nhưng vì họ đã đặt hạnh phúc
thật sai chỗ, sai đối tượng. Họ đã lầm tưởng rằng của
cải, các hoàn cảnh thuận lợi, danh phận
đời này là hạnh phúc thật. Chính vì thế
họ đã khước từ Chúa Kitô, khước từ
Nước Trời mà Thiên Chúa ban tặng.
Các mối phúc
thật hay Bản Hiến Chương Nước Trời
không chủ ý nói đến những điều kiện
để có hạnh phúc nhưng là trình bày nội dung
của hạnh phúc đích thật. Đó là Thiên Chúa, là
Nước Trời mà Người ban tặng cho nhân
loại. Hạnh phúc đích thật chính là quà tặng
nhưng không của Thiên Chúa, một quà tặng vượt
quá mọi khả năng chiếm hữu của con
người. Con người chỉ có thể đón
nhận ân phúc ấy bằng lòng tin. Thánh
Tông đồ dân ngoại đã từng nhấn mạnh
chân lý này trong thư gửi tín hữu giáo đoàn Galata và
giáo đoàn Rôma (x.Gl 2,16.19-21; Rm 3,28-30).
Có
thể nói rằng tám mối phúc như khó nghèo, sầu
khổ, khát khao nên người công chính, biết xót
thương người…là những cách thế biểu
lộ niềm tin, những con đường sống
đức tin. Và
chúng ta cũng có thể nói rằng ngoài những con
đường, những cách thế rõ nét ấy thì vẫn
có đó muôn vàn con đường sống đức tin,
muôn muôn vàn cách thế biểu lộ niềm tin. Có thể xem đây là sự giao thoa giữa tám
mối phúc đã được kể. “Ông Giêsu
ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ
đến tôi !”(Lc23,42).
Không biết người gian phi bị treo bên phải Chúa
Giêsu năm nào đã đi con đường nào của bát
phúc, nhưng anh ta đã biểu lộ niềm tin vào Chúa
Giêsu. Và anh đã được trao ban hạnh phúc đích
thực là Nước Trời ngay ngày hôm ấy (x.Lc 23,43).
Cũng như
Bản Hiến Pháp của một quốc gia vừa có tính
hướng dẫn, vừa có tính quy định những
thể chế, tổ chức, luật lệ của
quốc gia ấy, thì Bản Hiến Chương
Nước Trời khi cho biết đâu là hạnh phúc
thật và con đường để có hạnh phúc
thật sẽ có tính hướng dẫn và quy định
các tổ chức, sinh hoạt…của đoàn tín hữu Kitô
không chỉ trong tư cách cá nhân mà cả trong tư cách là
đoàn dân của Thiên Chúa. Mong sao mọi tổ chức sinh
hoạt của Giáo hội, mọi nghi tiết Phụng
vụ, mọi luật lệ được ban hành…
biết lấy Bản Hiến Chương Nước
trời làm tiêu chuẩn quy chiếu. Và ước gì
được một lần trong đời chúng ta không
chỉ cất tiếng hát mà còn thực sự cảm
nhận và xác tín lời một bài thánh ca khá quen thuộc:
“vì ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc…?”
|