Đức Giêsu thờ
phượng Thiên Chúa
bằng cách chịu «sát tế»
để cứu chuộc nhân loại
ĐỌC
LỜI CHÚA
• Is 49,3.5-6: (6) Ta đã gọi ngươi, vì muốn
làm sáng tỏ đức công chính của Ta, (7) để
ngươi mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi
tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi
ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm.
• 1 Cr 1,1-3: (3) Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu
Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an.
• TIN MỪNG:
Ga 1,29-34
Lời
chứng của Gioan
(29) Hôm
sau, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình,
liền nói: «Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ
tội trần gian. (30) Chính Người là Đấng tôi
đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến
sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.
(31) Tôi đã không biết Người, nhưng để
Người được tỏ ra cho dân Ítraen, tôi đến
làm phép rửa trong nước». (32) Ông Gioan còn làm chứng: «Tôi đã thấy Thần
Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự
trên Người. (33) Tôi đã không biết Người.
Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong
nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy Thần
Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là
Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. (34)
Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người
là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn».
CHIA SẺ
Câu hỏi
gợi ý:
1. Việc
sát tế chiên trong đạo Do Thái bắt nguồn từ
đâu, có ý nghĩa gì? Sự việc ấy có
liên quan gì đến danh xưng «Chiên Thiên Chúa» mà Gioan Tẩy
Giả dùng để giới thiệu Đức Giêsu?
2. Việc
Đức Giêsu làm «chiên bị sát tế» trên thập giá cho
ta bài học gì? Trong lễ toàn thiêu thập giá
này, có sự liên hệ gì giữa việc thờ phượng
Thiên Chúa và việc yêu thương nhân loại không? Phải chăng Ngài thờ phượng Thiên Chúa bằng
cách chết cho nhân loại?
Suy tư
gợi ý:
1. Chiên bị
sát tế để hy sinh đền tội thay cho con
người
Người
Do Thái có tục sát tế chiên trên bàn thờ để thờ
phượng, cảm tạ Thiên Chúa, để xin ơn và
để đền tội. Tục lệ này bắt nguồn
từ thời Abel, con trai thứ của Ađam: «Aben làm nghề
chăn chiên» (St 4,2), nên để thờ
phượng và tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa, «Aben dâng những
con đầu lòng của bầy chiên cùng với mỡ của
chúng» lên Ngài (St 4,4). Đến thời dân Do Thái vượt
qua Biển Đỏ, Môsê ra lệnh cho mỗi nhà người
Do Thái phải sát tế một con chiên, bôi máu lên khung cửa
(x. Xh 12,2-7). Đêm ấy, tất cả
những nhà trên đất nước Ai cập không có máu
chiên trên khung cửa, đều bị chết đứa
con trai đầu lòng (x. Xh 12,29-30). Chỉ có người Do Thái nhờ máu chiên trên
khung cửa mà không bị như thế. Từ đó
việc sát tế chiên mang thêm ý nghĩa: chiên chết thay
người. Về sau, theo sách Xuất hành (Xh 29,38-46) thì tại đền thờ, các tư
tế Do Thái đều sát tế mỗi ngày hai con chiên làm của
lễ toàn thiêu: sáng sớm một con, chập tối một
con, để dâng lên Thiên Chúa làm của lễ đền tội
cho dân. Đúng ra ai phạm tội thì chính
người ấy bị phạt, mà phạm đến
Thiên Chúa thì chỉ có hình phạt chết mới xứng
đáng. Nhưng Thiên Chúa nhân lành không muốn con người
phải chết: «Ta không muốn kẻ gian ác phải chết,
nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được
sống» (Ed 18,23). Luật công bằng
đòi hỏi tội phải đền; nên để con
người còn được sống mà ăn năn hối
cải, Ngài chấp nhận cho con người lấy chiên
đền mạng. Như vậy chiên bị sát tế là
để hy sinh chết thay cho con người lẽ ra phải
chết vì tội lỗi mình.
2. Đức
Giêsu là «Chiên Thiên Chúa» bị sát tế để cứu nhân
loại
Theo lẽ thường, gọi Đức Giêsu là chiên
thì quả là xúc phạm.
Nhưng để cứu chuộc nhân loại, theo kế
hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa, Đức Giêsu phải
bị giết chết để đền tội thay cho
con người, tương tự như những con chiên bị
sát tế trong đền thờ để chết thay cho
người tội lỗi. Gioan đã thấy trước
số phận tương lai của Đức Giêsu như
thế, nên ông giới thiệu Đức Giêsu cho mọi
người: «Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội
trần gian». Sách Khải Huyền cũng dùng
rất nhiều lần từ «Con Chiên» để chỉ về
Đức Giêsu.
Thánh
Phaolô viết: «Nếu máu các con dê, con bò còn thánh hóa được
con người, làm cho họ trở nên trong sạch, thì máu
của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy»
(Dt 9,13-14). Hiệu lực đến nỗi Ngài chỉ cần
chết một lần là đủ xóa được tội
lỗi toàn nhân loại: «Chúng ta được thánh hoá nhờ
Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế,
chỉ một lần là đủ» (Dt 10,10),
vì Ngài là «Con Chiên vẹn toàn, không tỳ vết» (1Pr 1,19), nhất
là vì Ngài cũng chính là Thiên Chúa, nên giá trị cứu chuộc
của Ngài là vô cùng. «Máu của Người rảy xuống,
máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả
máu Aben» (Dt 12,24). «Nhờ máu Người
đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại
bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật
trên trời» (Cl 1,20).
3. Cách thờ
phượng mới của Đức Giêsu đối với
Thiên Chúa
Lễ
toàn thiêu – mà chính Đức Giêsu là của lễ, là chiên bị
sát tế, đồng thời cũng chính là chủ tế,
lấy thập giá làm bàn thờ – được thực hiện
để thờ phượng và tôn vinh Thiên Chúa. Trong lễ
toàn thiêu này, Ngài đã chịu đau khổ tột cùng và bị
giết để cứu chuộc nhân loại, để
nhân loại «được sống và sống dồi dào»
(Ga 10,10). Tất cả chỉ vì yêu
thương con người đến tận cùng của
tình yêu (x. Ga 13,1). Trong lễ toàn thiêu này,
Đức Giêsu đã thờ phượng và tôn vinh Thiên Chúa
bằng chính tình yêu hoàn toàn vị tha và vô bờ bến của
Ngài đối với nhân loại, được thể
hiện cụ thể bằng cái chết thê thảm của
Ngài. Đó chính là cách thờ phượng mới
của Ngài.
Ngài không
thờ phượng Thiên Chúa bằng những lễ toàn
thiêu, trong đó chỉ có chiên bị giết chứ chủ
tế hay người dâng lễ chẳng bị thiệt hại
mảy may. Ngài không tôn vinh Thiên Chúa bằng những lời
ca tụng, đề cao Thiên Chúa đến tận mây xanh,
mà người tôn vinh chẳng phải mất mát điều
gì. Ngài không thờ phượng và tôn vinh Thiên
Chúa bằng những thể thức vắng bóng tình yêu
đối với tha nhân. Trái lại,
Ngài đã bầy tỏ lòng yêu mến của Ngài đối
với Thiên Chúa bằng chính tình yêu của Ngài đối với
tha nhân. Yêu Thiên Chúa được thể
hiện thành yêu tha nhân. Nơi Ngài, yêu Thiên Chúa và
thương tha nhân chỉ là một tình yêu duy nhất, không
độc lập hay tách biệt nhau. Ngài thờ
phượng Thiên Chúa bằng cách phục vụ và chết
cho tha nhân. Đó là cách yêu mến, thờ
phượng và tôn vinh Thiên Chúa của Ngài.
Còn cách yêu mến, thờ phượng và tôn vinh Thiên
Chúa của chúng ta dường như độc lập và
tách biệt hẳn với việc yêu mến, hy sinh và phục
vụ tha nhân. Chúng ta có thể yêu mến, thờ phượng và
tôn vinh Thiên Chúa một cách hết sức nhiệt tình, sốt
sắng mà không hề nghĩ gì đến những những
người chung quanh chúng ta đang cần đến tình
yêu, sự quan tâm, giúp đỡ, hy sinh của chúng ta.
Ai động chạm đến quyền lợi hay tự
ái của ta là ta nổi xung lên và quyết chí ăn
thua đủ. Ai vượt trội hơn
ta, nổi tiếng hơn ta, được mọi người
đề cao hơn ta thì ta bực bội và muốn tìm cách
chê bai, hạ nhục người ấy. Ai túng nghèo,
khổ cực, bệnh tật, bị áp bức bất công
thì ta coi chuyện ấy như không liên can gì đến ta cả.
Liệu yêu mến, thờ phượng và tôn
vinh Thiên Chúa như thế có giá trị gì trước mặt
Ngài không?
Thiên Chúa
đã trả lời cho chúng ta qua ngôn sứ Isaia: «Ngần ấy
hy lễ của các ngươi, đối với Ta, nào
nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập,
Ta đã ngấy. Máu bò, máu chiên dê, Ta chẳng thèm! (…) Thôi, đừng đem những lễ vật vô
ích đến nữa. Ta ghê tởm khói hương; Ta
không chịu nổi ngày đầu tháng, ngày sabát, ngày đại
hội, không chịu nổi những người cứ phạm
tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình. Ta
chán ghét những ngày đầu tháng, những đại lễ
của các ngươi. Những thứ đó
đã trở thành gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa.
Khi các ngươi dang tay cầu nguyện,
Ta bịt mắt không nhìn; các ngươi có đọc kinh
cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay
các ngươi đầy những máu. Hãy rửa
cho sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của
các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa. Hãy tập
làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa
phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện
hộ cho quả phụ» (Is 1,11-17).
Chính
Đức Giêsu cũng nói: «Ta muốn lòng nhân chứ đâu
cần lễ tế» (Mt 9,13; 12,7). Ngài
đặt nặng tình yêu và sự hòa thuận đối với
tha nhân hơn cả việc dâng của lễ toàn thiêu lên
Thiên Chúa: «Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước
bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có
chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ
lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với
người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ
vật của mình» (Mt 5,23-24).
Cách đây 2700 năm, ngôn sứ Isaia đã cảnh báo về
kiểu thờ phượng Thiên Chúa độc lập với
tình yêu tha nhân; và cách đây 2000 năm, chính Đức Giêsu
cũng lập lại tinh thần ấy của Isaia. Nhưng tiếc thay, cho đến nay, sau mấy
ngàn năm, rất nhiều người trong chúng ta vẫn
chưa học được bài học của các ngài.
Thật đáng tiếc! Trách nhiệm này thuộc
về ai?
CẦU
NGUYỆN
Lạy
Cha, Đức Giêsu đã trở nên «con chiên bị sát tế»,
đã chết cách thê thảm để cứu chuộc nhân
loại cũng vì tha thiết yêu thương nhân loại. Và sự hy sinh ấy chính là cách Ngài thờ phượng
và bày tỏ tình yêu đối với Cha. Xin cho con
cũng biết thờ phượng và yêu mến Cha theo cách thức ấy. Nếu không thể hy
sinh một cách lớn lao cho tha nhân chung quanh con thì hãy giúp con
quảng đại hy sinh cho tha nhân trong những chuyện
nhỏ nhặt và cụ thể của đời sống,
đó là cách biểu lộ tình yêu đối với Cha mà
Cha yêu thích nhất. (JK)
Nguyễn Chính Kết
|