Ánh vinh quang – Trầm
Thiên Thu
Lễ Hiển
Linh trước đây được gọi là lễ Ba
Vua. Tuy nhiên, sự thật họ không phải là những
ông Vua mà là các chiêm tinh gia, các đạo sĩ đến từ
Đông phương, cũng không phải chỉ có ba ông mà
nhiều ông. Với con mắt "nhà nghề", họ
đã nhân biết đó là Ánh Sao Lạ, ngôi sao này kỳ
lạ đến nỗi họ đã phải tức
tốc lên đường đi tìm, nghĩa là họ đã
được Ơn Chúa tác động, nhưng
điều quan trọng là họ mau mắn làm theo linh
hứng của Chúa Thánh Thần.
Hiển linh là
Thiên Chúa tỏ cho nhân loại biết và nhân loại đã
nhận biết Hài Nhi Giêsu là Thiên Tử, là Đấng Thiên
Sai. Lời cầu nguyện "xin cho Danh Cha cả
sáng" đã hiện thực.
Ngôn sứ Isaia
nói: "Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của
ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức
Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng
tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp
chư dân; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh
chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên
ngươi" (Is 60:1-2). Ánh Sáng đó là vinh quang Thiên Chúa,
Ánh Sáng đó là Đức Kitô giáng sinh tại Belem, và từ
nay, Ánh Sáng đó luôn chiếu tỏa khắp nơi, bóng
tối phải lùi bước ở bất cứ nơi
nào có Ánh Sáng.
Vì thế,
"chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của
ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của
ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn
tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp,
kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ
phương xa tới, con gái ngươi được
ẵm bên hông" (Is 60:3-4). Trong số chư dân đó có
chúng ta, những con dân nước Việt bé nhỏ,
thế mà lại được làm con của Thiên Chúa, vì
Ánh Sáng Đức Kitô đã và đang chiếu sáng dọc
suốt đất nước hình chữ S thân yêu của
dân Việt chúng ta. Thật kỳ diệu biết bao!
Đúng như ngôn sứ Isaia đã tiên báo: "Trước
cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng
ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì
nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả,
của cải muôn dân nước sẽ tràn đến
với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp
đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha: tất cả
những người từ Sơ-va kéo đến,
đều mang theo vàng với trầm hương, và loan
truyền lời ca tụng Đức Chúa" (Is 60:5-6).
Toàn thể nhân
loại hân hoan qua lời cầu nguyện: "Tâu
Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân
Vương, trao công lý Ngài vào tay Thái Tử, để Tân
Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực
quyền lợi kẻ nghèo hèn" (Tv 72:1-2). Công lý rất
cần, có công lý mới khả dĩ có hòa bình đích
thực, có công lý thì người nghèo mới
được tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân
quyền. Chính Chúa Giêsu đã đến thực hiện công
lý. Vì thế, chắc chắn "triều đại
Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh
trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
Người làm bá chủ từ biển này qua biển
nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi
đất" (Tv 72:7-8). Đó là vương quốc hòa
bình, mỗi công dân đều sống trong hạnh phúc.
Từ khắp
nơi, không trừ nơi nào, ngay cả những vùng sâu vùng
xa nhất, từ "các hải đảo xa xăm, hàng
vương giả sẽ về triều cống Ngài,
những vua chúa cũng đều tới tiến dâng
lễ vật, mọi quân vương phủ phục
trước bệ rồng, muôn dân nước thảy
đều phụng sự" (Tv 72:10-11). Đức Kitô là
Vua Công Lý, "Ngài giải thoát bần dân kêu khổ và
kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh
lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân
nghèo, Người ra tay tế độ" (Tv 72:12-13).
Đó là điều mà Giáo hội đang rất quan tâm,
được trình bày qua Giáo huấn Xã hội Công giáo,
nhất là từ Công đồng Vatican II.
Thánh Phaolô nói:
"Hẳn anh em đã được nghe biết về
kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi,
liên quan đến anh em. Ngài đã mặc khải
để tôi được biết mầu nhiệm
Đức Kitô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên
đây" (Ep 3:2-3). Tông truyền là một trong bốn
đặc tính của Giáo hội Công giáo, và đó cũng là
mối dây liên kết các chi thể trong Nhiệm Thể
Đức Kitô, đồng thời cũng là tình liên
đới với nhau – kể cả với người
không cùng tôn giáo.
Thánh Phaolô
giải thích rõ ràng: "Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã
không cho những người thuộc các thế hệ
trước được biết, nhưng nay Ngài đã
dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và
ngôn sứ của Ngài. Mầu nhiệm đó là: trong
Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại
được cùng thừa kế gia nghiệp với
người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia
sẻ điều Thiên Chúa hứa" (Ep 3:5-6). Vì thế,
chúng ta không có lý do gì để "chảnh" hoặc
kỳ thị người khác, dù người đó là ai.
Thánh sử
Mátthêu kể: Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem,
miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy
nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem,
và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện
ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của
Người xuất hiện bên phương Đông, nên
chúng tôi đến bái lạy Người" (Mt 2:2). Nghe
tin ấy, vua Hêrôđê mới tá hỏa tam tinh, như
bị sét đánh ngang tai, vì tâm bất chính nên ông bối
rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền
triệu tập tất cả các thượng tế và kinh
sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng
Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ đều trả
lời: "Tại Bêlem, miền Giuđê". Đúng
như trong sách ngôn sứ có chép rõ ràng: "Phần
ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa,
ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của
Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn
dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời" (Mt 2:6).
Bấy giờ
vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến,
hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã
xuất hiện, rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem
và dặn: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường
tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại
cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Ngài"
(Mt 2:7). Nghe chừng tử tế quá! Miệng nam mô mà
bụng một bồ dao găm. Đây là loại
"đểu thật" chứ không "đểu
giả", lọc lừa và mánh khóe một cách tinh vi,
người khác khó có thể nhận ra, khi biết bị
lừa thì "chuyện đã rồi". Động thái
của vua Hêrôđê cũng nhắc chúng ta xem lại lời
ăn tiếng nói và hành động của mình có
"lệch pha" hay không, vì ai cũng có thể nói hay
về mình, muốn chứng tỏ mình "tốt lành"
nhưng thực ra lại đang mưu mô thâm hiểm.
Nghe nhà vua nói
thế, họ ra đi, vì họ ngay lành nên cứ
tưởng ông vua này cũng tốt lành. Thực ra vua
Hêrôđê chẳng dễ dãi cho họ đi như vậy
đâu, ông ta tính "đường dài" hơn, chơi
"nước cờ" cao hơn thôi. Chứ nếu ông
ta không tính xa thì ông ta đã bỏ tù họ hoặc lệnh
cho họ bị "cẩu đầu trảm"
rồi.
Ra khỏi hoàng
cung, ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông
lại dẫn đường cho họ đến tận
nơi Hài Nhi ở, rồi mới dừng lại. Lạ
thật! Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.
Vào trong hang đá, thấy Hài Nhi với thân mẫu là Cô
Maria, họ liền sấp mình thờ lạy Hài Nhi.
Thấy một
Em Bé ngọ nguậy, thế mà họ sụp lạy.
Lạ thật! Đó là đức tin của họ.
Nếu là chúng ta, liệu chúng ta có tin và sụp lạy Hài
Nhi như họ? Có lẽ "hơi bị khó".
Nhưng mấy chiêm tinh gia kia không đắn đo, không
tính toán, không ngập ngừng, thấy và sụp lạy
ngay. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ
hương và mộc dược mà dâng tiến.
Sau đó,
họ được báo mộng là đừng trở
lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên họ đã đi
lối khác mà về xứ mình. Họ lại nhận
được ơn Chúa. Chắc lúc này họ mới
nhận thấy mình thực sự may mắn vì thoát
khỏi "nanh vuốt" của ông vua dã tâm Hêrôđê.
Việc Chúa làm thật là kỳ diệu!
Lạy Thiên Chúa chí minh và chí
thiện, xin giúp chúng con sống ngay lành, tâm địa
tốt lành, biết nghĩ tốt cho người khác
chứ không suy đoán theo thiên kiến. Tất cả vì sáng
danh Chúa chứ không vì vinh danh chúng con hoặc tư lợi. Chúng
con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng
Cứu Thế. Amen.
|