Khởi đầu mới phát xuất
từ Thiên Chúa
(Chú
giải và Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Phần Mở của Tin Mừng Mt
đi từ 1,1–4,16. Về nội dung, trong bốn
chương mở đầu này trước khi
Đức Giêsu xuất hiện công khai, có hai người
khám phá ra Đức Giêsu là ai, theo hai đường song
song và riêng tư: Giuse (ch. 1–2) và Gioan Tẩy Giả (ch. 3–4).
Giuse thì được thiên thần Chúa báo tin trong giấc
mơ rằng Đức Giêsu là con (cháu) vua Đavít, còn Gioan
thì được một tiếng từ trời cho
biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Cả hai vị
đều muốn tránh né ơn gọi đặc biệt
các vị được mời đảm nhận trong
liên hệ với Đức Giêsu, vị đầu sẽ
đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, vị
sau sẽ trở thành khí cụ để tấn phong làm Đấng
Mêsia trong phép rửa. Trong cả hai trường hợp,
cảm thức về sự bất xứng của hai
vị đã là động lực khiến các vị có thái
độ như thế (chính theo nghĩa này mà ta phải
hiểu sự “bối rối” của Giuse). Nhưng sự
băn khoăn bối rối của các vị đã
được thiên thần hoặc chính Đức Giêsu
đánh tan. Cuối cùng, cũng như Giuse, khi chấp
nhận đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua
Đavít, đã kéo theo cuộc bách hại của vua Hêrôđê,
Gioan Tẩy Giả, khi chấp nhận ban phép rửa cho
Đức Giêsu và tạo cho Người cơ hội
được tấn phong làm Đấng Mêsia, đã kéo
theo những đợt tấn công của Satan.
Bản văn đọc trong Phụng
vụ hôm nay là phân đoạn thứ hai thuộc nửa
đầu của Phần Mở.
Bảng gia phả đã nói rằng
Đức Giêsu xuất thân từ nhà Đavít và Abraham
cũng như Người bén rễ sâu vào trong lịch
sử Israel. Đồng
thời bảng gia phả cũng khẳng định hoàn
cảnh huyền bí của cuộc chào đời của
Người (1,16). Với cách bố trí cũng như những
con số, bảng gia phả cho thấy rằng Đức
Giêsu là cùng đích và sự hoàn tất của lịch
sử này. Nhưng bảng gia phả lại không nói cho biết
sự hoàn tất này hệ tại điều gì.
Điều này bây giờ được nói rõ qua sứ
điệp Thiên Chúa ban cho Giuse và được xác nhận
qua cách xử sự của Giuse.
Trong c. 16 của ch. 1, tác giả bảo
chúng ta rằng Giuse là chồng của Maria và Maria là mẹ
của Đức Giêsu, nhưng Giêsu lại không phải là
con của Giuse. Trong đoạn văn đọc hôm nay
(1,18.20), tác giả liên tiếp nhắc lại rằng Chúa
Thánh Thần ở tại nguồn của cuộc
đời Đức Giêsu đến cuối đoạn
văn, tác giả nhắc lại lần thứ ba rằng
Giuse không can dự gì vào cuộc chào đời của con
trẻ này (1,25). Nếu ở 1,25, tác giả viết: “Ông
không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một
con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”, ông muốn
nói rằng cho đến khi Đức Giêsu chào đời,
Giuse không hề có mộtquan hệ phu phụ nào với
Maria, nhưng cũng không khẳng định rằng sau
đó Giuse đã bắt đầu có quan hệ này.
2.- Bố cục
Bản
văn có thể chia làm năm phần:
1)
Đầu đề của đoạn (1,18a);
2)
Hoàn cảnh của Giuse và Maria (1,18b-19);
3)
Thiên Chúa can thiệp (1,20-21);
4)
Lời bình của tác giả (1,22-23);
5)
Giuse thi hành lệnh Thiên Chúa (1,24-25).
3.- Chú giải
- chung sống (18): Synelthein, “đến với, tham
gia với”, có thể có nghĩa là quan hệ vợ
chồng hoặc sống với nhau. Văn cảnh
trực tiếp dường như hợp với nghĩa
thứ nhất hơn. Người thiếu nữ Do Thái
được đính hôn vào khoảng năm 12 tuổi,
từ giã cha mẹ để về sống dưới
sự bảo trợ của chồng vào khoảng năm
13-14 tuổi. Sự chuyển đi này mở đầu cho
cuộc sống chung và cũng là việc kết hôn.
- người công chính (19): Giuse không công
chính theo nghĩa vâng phục lề luật, bởi vì không
có khoản luật nào buộc phải bỏ vị hôn thê
bị coi là ngoại tình (Đnl 22,13-21.23-27 liên hệ
đến hôn nhân hoàn hợp; x. Đnl 24,1). Vả lại,
khi bỏ Maria một cách kín đáo (lathra), ngài cũng
chẳng vâng phục lề luật, bởi vì hành vi rẫy
vợ chỉ có giá trị pháp lý nếu làm công khai (x.
Đnl 22,15: tại cửa thành). Một đàng, nếu
hiểu đây là “sự công chính theo luật pháp”, chúng ta
đứng trước một thế lưỡng nan.
Quả vậy, nếu dưới mắt Giuse, Maria đã
ngoại tình, ngài bỏ bà là chuyện dễ hiểu,
nhưng ta không hiểu vì sao ngài lại tính bỏ bà “cách kín
đáo”, bởi vì khi đó việc này sẽ không có hiệu
quả pháp lý và thật ra bí mật cũng chẳng giữ
được lâu. Còn nếu Giuse cho rằng Maria vô
tội, ta không hiểu được là vì sao ngài lại
nghĩ đến việc bỏ bà, vì luật không buộc
như thế; đã thế, trong tư cách là hôn phu, ngài còn
có nghĩa vụ bảo vệ hôn thê vô tội chống
lại những ngờ vực vô căn cứ của
kẻ khác. Vậy không thể hiểu sự công chính
của ngài theo nghĩa pháp lý.
Đây là sự công chính tôn giáo. Chính
sự công chính này buộc Giuse phải tôn trọng việc
Thiên Chúa làm nơi Maria và ngăn cản ngài nhận lấy
những công trạng từ một hành động của
Thiên Chúa: tự mình, ngài nghĩ ngài không được phép
đưa về nhà một người đã
được Thiên Chúa dành riêng cho Ngài. Nếu làm như
thế, ngài có vẻ chiếm đoạt mộtvai trò mà
Thiên Chúa không trao cho ngài. Đứng trước mầu
nhiệm này, ngài muốn rút lui, và vì tế nhị do
đức công chính đối với Thiên Chúa, ngài đã để
ý không “phổ biến” mầu nhiệm Thiên Chúa đang bao
trùm Maria. Vấn đề nằm ở động từ
deigmatisai: theo Origiênê và Êusêbiô, động từ này không
hề hàm chứa một ý niệm ô nhục nào; cha Joušon
dịch là “vén mở, tiết lộ”. Động từ
paradeigmatisai mới là “trừng phạt để nêu
gương; làm cho ô nhục, mất danh giá”. Giuse đã
phản ứng như tất cả mọi người
công chính trong Kinh Thánh khi nhận ra Thiên Chúa đang can
thiệp vào trong lịch sử của họ: như Môsê
cởi dép khi đứng trước bụi gai cháy, như
ngôn sứ Isaia kinh hoàng khi thấy vị Thiên Chúa ba lần
thánh xuất hiện, như bà Êlisabét tự hỏi vì sao
mẹ Đức Chúa của bà lại đến thăm
bà, như viên đại đội trưởng trên
đồi Sọ, như Phêrô khi chứng kiến mẻ cá
lạ lùng. Như “Aben người công chính” (23,36:
người “công chính” duy nhất được Mt nêu tên
trong Tin Mừng. Chắc chắn Aben “công chính” không do lề
luật, bởi vì lề luật chỉ được ban
bố với Môsê!), Giuse cũng tỏ ra là người
trung thành thờ phượng Thiên Chúa.
Cách giải thích này được
hỗ trợ bởi ngữ cảnh tổng quát của
toàn ch. 1 của Mt. Trong bài đầu tiên (1,1-17), Mt đã
trình bày gia phả của Đức Giêsu khởi đi
từ tổ phụ Abraham và từ vua Đavít ngang qua Giuse.
Nhưng bảng gia phả này lại gặp ngay nơi Giuse
một vấn đề hóc búa. Đó là vì Đức Giêsu
không phải là con Giuse theo xác thịt. Vậy mục tiêu
của đoạn văn này là để giải thích làm
thế nào Đức Giêsu có thể thuộc về dòng dõi
vua Đavít, nếu Người không phải là con của
Giuse. Lời giải thích nằm ở việc Giuse nhìn
nhận Đức Giêsu làm con về pháp lý. Mục tiêu
của bản văn Tin Mừng này, thay vì bảo vệ
việc thụ thai đồng trinh, thì tìm các xác
định do đâu Đức Giêsu có thể trở thành
hậu duệ vua Đavít và Đấng Mêsia thuộc dòng
tộc vua Đavít cho dù có việc trinh thai. Vậy hai
phần của ch. 1 của Mt làm thành hai cánh của cùng
một việc chứng minh.
Một hỗ trợ khác nữa
đến từ chính những lời của thiên thần
(cc. 20-21): “Này ông Giuse là con cháu vua Đavít, đừng
ngại đón bà Maria vợ ông về, vì quả thật
(HL. gar: car certes; for, indeed, certainly) điều
được sinh thành (to gennêthen = đứa con) nơi bà
là việc của Thánh Thần, nhưng (HL. de) bà sẽ sinh
một con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là
Giêsu; vì (gar) chính Người sẽ cứu dân Người
khỏi tội lỗi của họ”. Dịch gar là
“quả thật” (chắc chắn) là chuyện thông
thường vào thời ấy (x. 1 Cr 9,10; 2 Tx 2,20; Mt 18,7;
22,14; 24,6…). Vậy khi nói như thế, thiên thần giả
thiết Giuse đã biết chuyện thụ thai
đồng trinh và chính chuyện này đã thúc đẩy
ngài rút lui, vì thấy Thiên Chúa can thiệp vào cuộc
đời Maria. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã truyền cho ngài “dù
sao” (“nhưng”) cũng cứ chấp nhận và đặt
tên cho con, và khi đó, ngài đưa con tháp nhập vào trong
dòng dõi vua Đavít.
- thiên thần Chúa (20): Như trong
Cựu Ước, thuật ngữ này được dùng
để nói tới sự can thiệp của Thiên Chúa (x.
St 16,7.13; Xh 3,2), chứ không có nghĩa là một trong các “thiên
thần".
- Giêsu (21): Trong Kinh Thánh, tên người còn chỉ
chức năng Thiên Chúa quy định cho một
người trong Lịch sử cứu độ. Iêsous là
dạng Hy Lạp của tên Híp-ri Yehôshua (x. Xh 24,13) hoặc
Yeshua (Nkm 7,7), có nghĩa là “Yhwh là sự cứu độ”,
“Yhwh ban ơn cứu độ”, “Yhwh cứu độ”,
“Ơn cứu độ của Yhwh”.
- Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai (23): Tác giả trích
Is 7,14 theo Bản LXX, bởi vì trong bản này có từ
parthenos, “trinh nữ”, chứ trong bản Híp-ri, ta
đọc là almah, “thiếu nữ”, có thể là một
thiếu nữ hoặc một người vợ trẻ.
Cũng vì dựa trên Is 7,14, Do Thái giáo Paléttina không chờ
đợi Đấng Mêsia được sinh ra bởi
một trinh nữ, nhưng chờ đợi Người
là một con đầu lòng (x. Lc 2,7).
- Emmanuel (Hp. Immanuel): Tác giả không nêu ra một
tên mới của Đấng Mêsia, mà nêu lên ý nghĩa
của bản thân và công trình của Người. Is 7,14 và
8,8 cũng không nhấn mạnh đến sự hiện
diện của Thiên Chúa, vì điều này được
giả thiết có trong Kinh Thánh, nhưng nhấn mạnh
đến sự diện diện năng động
của Ngài để cứu giúp. Như thế, nơi
Đức Giêsu, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài
để trợ giúp và cứu độ họ. Lời
hứa long trọng của Đức Kitô vinh hiển
(“Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận
thế”, 28,20) cho thấy lời loan báo ấy đã
được thực hiện hoàn hảo. TM Mt mở ra và
kết thúc với ý tưởng này: nơi bản thân
Đức Giêsu, Thiên Chúa sẵn sàng đến hiện
diện năng động, tích cực, với loài
người.
- ông không … cho đến khi… (25): Câu này hoàn toàn
đúng với c. 23 cho thấy rằng Maria là trinh nữ khi
sinh con. Câu “ông không biết (= ăn ở với) bà, cho
đến khi bà sinh một con trai” không chống lại việc
sau đó Maria vẫn đồng trinh, cũng không ám chỉ
điều này, mà cũng không cho phép kết luận
rằng sau đó bà đã có những quan hệ vợ
chồng với Giuse. Đàng khác, chúng ta ghi nhớ rằng
mẫu tính đồng trinh của Đức Maria không có
nghĩa sinh học, mà diễn tả niềm tin của Giáo
Hội vào thần tính và nhân tính của Đức Giêsu.
4.- Ý nghĩa của
bản văn
* Đầu đề của đoạn
(18a)
Với đầu đề (18a), tác
giả Mt ngỏ lời với độc giả
để xác định hoặc điều chỉnh cách
thức họ hình dung cuộc chào đời của
Đức Giêsu.
Đức Giêsu không phải là con
của Giuse, nhưng là tạo thành của Chúa Thánh Thần.
Nơi Người, lịch sử Israel đi đến
chỗ hoàn tất, nhưng Người không phải là hoa
trái tự nhiên hoặc kết quả thiết yếu
của lịch sử này. Người không lệ thuộc
vào và không chỉ xuất thân từ mộtchuỗi các
thế hệ và những cuộc sinh hạ con
người. Người là sự hoàn tất, nhưng là
như mộtkhởi đầu hoàn toàn mới. Khởi
đầu cuộc sống của Người là do Chúa
Thánh Thần, khởi đầu này trực tiếp gắn
với hoạt động của quyền lực sáng
tạo của Thiên Chúa. Thiên Chúa gồm tóm nơi
Người toàn thể lịch sử Israel, đồng
thời thiết lập mộtkhởi đầu mới
mang tính sáng tạo. Không phải là loài người đã ban
tặng Đức Giêsu cho nhau; Người là khởi
đầu và là quà tặng hoàn toàn đến từ Thiên
Chúa. Đó là nguồn gốc của Đức Giêsu (1,18),
và nguồn gốc này cho thấy bản tính và ý nghĩa
của đời Người.
* Hoàn cảnh của Giuse và Maria (18b-19)
Tuy thuộc nguồn gốc thần
linh, Đức Giêsu lại được liên kết
với lịch sử Israel. Mẹ Người là Maria
đã đính hôn với Giuse, nhưng chưa về sống
trong nhà Giuse. Theo luật lệ Do Thái, với lễ đính
hôn, hai người nam nữ đã được coi là
vợ chồng rồi. Vì thế, Giuse được
gọi là chồng của Maria (1,16.19), còn Maria thì
được gọi là vợ của Giuse (1,20.24). Chỉ
mộtnăm hay mộtnăm rưỡi sau lễ đính
hôn, vị hôn thê mới được đưa về nhà
vị hôn phu và bắt đầu cuộc sống vợ
chồng. Ở đây, tác giả Mt cũng không cung cấp
một thông tin nào đặc biệt về Giuse và Maria, ngài
nói về hai đấng như những nhân vật rất
quen thuộc với độc giả. Vậy mục tiêu
của ngài không phải là cung cấp tài liệu, mà là
huấn giáo. Trong thời gian giữa lễ đính hôn và
cuộc chuyển về nhà chồng, Giuse nhận ra
rằng Maria đã có thai. Đọc c. 18b cách bình thản,
ta thấy dường như tác giả gợi ý rằng
Giuse có biết việc Maria mang thai là do sự can thiệp
của Chúa Thánh Thần. Giuse quyết định bỏ
Maria kín đáo vì tế nhị đối với sự can
thiệp của Thiên Chúa nơi Maria.
* Thiên Chúa can thiệp (20-21)
Giuse đang toan tính như thế trong
lòng, thì được Thiên Chúa can thiệp qua việc
mộtthiên sứ đến báo mộng để khẳng
định với ngài là quả thật con trẻ sắp
chào đời thuộc nguồn gốc thần linh;
nhưng ngài có nhiệm vụ đón Maria về và
đặt tên cho con trẻ. Ngài phải duy trì dây liên hệ
với Maria và như thế, nhìn nhận trước
luật pháp rằng con trẻ ấy là con của ngài. Do
nhiệm vụ Thiên Chúa giao, Giuse trở thành cha của hài
nhi về mặt luật pháp và cũng trước luật
pháp, Giêsu trở thành con và đương nhiên là
người thừa kế của ngài. Hệ quả là
Đức Giêsu được tháp nhập hợp pháp vào
gia phả của Giuse. Như thế, Đức Giêsu đi
vào trong dòng dõi xuất thân từ các vị tiền nhân
ấy và trở thành đích điểm và sự hoàn
tất của dòng dõi ấy. Như vậy, tác giả Mt
không nhắm thỏa mãn óc tò mò của chúng ta. Tất cả
những gì ngài muốn chúng ta hiểu là: con của bà Maria
là người được Thiên Chúa hứa cho thừa
kế ngai vàng vua Đavít, như các ngôn sứ đã
từng loan báo.
Còn Đức Giêsu thực hiện
vị trí và nhiệm vụ ấy như thế nào, thì chính
tên của Người cho thấy, tên mà Thiên Chúa đã
chọn cho Người và Giuse phải đặt cho
Người. Thiên Chúa đã đổi tên cho người
trước đây được gọi là Abram và ban cho
ông tên mới là Abraham, “vì Ta đặt ngươi làm cha
của vô số dân tộc” (x. St 17,5). Sự tuyển
chọn của Thiên Chúa được diễn tả ra và
xác nhận bằng việc đổi tên. Vì trao
mộtnhiệm vụ mới và với nhiệm vụ này
là mộtđời sống mới, Ngài ban cho mộttên
mới. Điều đó càng đúng hơn nữa với
Đức Giêsu, con cháu tổ phụ Abraham. Cùng với
cuộc đời, Người đã được Thiên
Chúa ban cho ngay từ đầu tên và nhiệm vụ. Tên
của Người là Yeshua hay là Yehoshua, có nghĩa là “Thiên
Chúa là sự cứu độ”; Người giải thoát
khỏi tội lỗi (1,21; x. Tv 130,8). Với nhiệm
vụ này, Đức Giêsu có quyền năng Thiên Chúa và
ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho ta nhờ trung gian
Người. TM Mt sẽ cho thấy Đức Giêsu là
Đấng Mêsia, là Đức Vua và Vị Mục tử,
Người săn sóc dân Người và đưa họ
đến sự sống viên mãn.
* Lời bình của tác giả (22-23)
Đến đây tác giả viết
lời bình. Với biến cố này, đã thực
hiện điều mà Thiên Chúa đã loan báo qua miệng các
ngôn sứ. Trong dự phóng của Ngài, chính Thiên Chúa muốn
có cuộc chào đời và hài nhi này. Khi khẳng
định rằng lời Thiên Chúa được ứng
nghiệm, mộtlần nữa tác giả muốn nói
rằng đàng sau biến cố này, có Thiên Chúa như là
Đấng quy định và hướng dẫn mọi
sự. Khi cho biết Đức Giêsu cũng chính là
“Emmanuel”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, tác giả cho
biết đặc tính của biến cố Người
đến, cũng như đặc điểm của
sự hiện diện và công trình của Người:
nơi Người, Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Đức
Giêsu là sự hiện diện năng động của
Thiên Chúa gần kề chúng ta; nơi Người, vị
Thiên Chúa từ bi thương xót tỏ mình ra, vị Thiên
Chúa trợ giúp và cứu độ, cũng như tỏ
hiện dự phóng của Ngài đối với loài
người. Nơi Người, Thiên Chúa ở cùng chúng ta
và chúng ta đến được với Thiên Chúa (x.
28,20).
* Giuse thi hành lệnh Thiên Chúa (24-25)
Khi đã biết rõ ý Thiên Chúa, Giuse thi
hành ngay: ngài “đón vợ về nhà”. Câu văn tiếp theo
cho biết là ngài không có quan hệ phu thê với Maria, và
như thế hài nhi Giêsu không phải là con của ngài.
Nhưng câu văn này cũng không hề ám chỉ là sau
đó Giuse có quan hệ vợ chồng với Maria. Với
lại tác giả không quan tâm đến vấn đề
này. Ông còn đang cho thấy là Giuse thi hành chính xác lệnh
Thiên Chúa truyền: “ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”.
+ Kết luận
Tại hai cực của lịch sử
Lời Hứa, có hai ơn gọi hướng về nhau và
hoàn tất lẫn nhau: ơn gọi của Abraham, tổ
phụ đón nhận Lời Hứa, và ơn gọi
của Giuse, người đã vâng lệnh Chúa truyền nên
đã tạo điều kiện cho Lời Hứa
được thực hiện, đó là biến cố
Đấng Emmanuel ngự đến. Kể từ nay,
nhờ đã được Giuse đưa tháp nhập vào
trong dòng dõi vua Đavít, Đức Kitô có quan hệ trực
tiếp với mỗi người con người cháu
của tổ phụ Abraham, dù họ có đông như sao
trên trời không thể đếm nổi (x. St 15,5). Công
trình của Người không liên hệ đến
mộtlãnh vực nào của cuộc sống loài
người, nhưng đi đến tận gốc
rễ và thay đổi tương quan với Thiên Chúa.
Người sẽ chiến thắng sự bất phục
tùng và thái độ nổi loạn, sẽ tha thứ
tội lỗi và tái lập sự hiệp thông vào
đời sống với Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy
niệm
1. Đức Giêsu là cùng đích và sự
hoàn tất của lịch sử Israel, là như
mộtkhởi đầu mới phát xuất từ Thiên
Chúa. Như thế, Thiên Chúa không bỏ mặc dân Ngài xoay
xở bằng sức lực riêng, phó mặc con
người cho sức mạnh của lịch sử.
Đức Giêsu là quà tặng chân thật Thiên Chúa ban cho dân
Ngài. Nơi Người, công trình cứu độ của
Thiên Chúa được hoàn tất và sự hiệp thông
mật thiết nhất giữa Thiên Chúa và loài người
được thiết lập: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
2. Đức Giêsu là con cháu vua Đavít,
nhưng không theo nghĩa là Người có mộtquyền
lực chính trị hoặc quân sự, hoặc Người
là một nhà giải phóng chính trị theo nghĩa trần
thế. Người sẽ giải thoát loài người
khỏi tội lỗi, sẽ đưa con người
thoát khỏi tình trạng xa cách với Thiên Chúa và đưa
họ về hiệp thông trọn vẹn với Ngài.
3. Bởi vì biết là Thiên Chúa đang
can thiệp vào cuộc đời Maria cách đặc
biệt mà lại không thấy Ngài giao phó cho mình sứ
mạng gì đặc biệt, Giuse tìm cách âm thầm rút lui.
Ngài chứng tỏ ngài có mộtcảm thức sắc bén
về Thiên Chúa, mộtlòng tôn trọng thẳm sâu
đối với mầu nhiệm của Thiên Chúa và
mầu nhiệm thánh ý Ngài. Người Kitô hữu
được mời gọi học nơi Giuse bài học
này: tôn trọng đối với các dự phóng của
Thiên Chúa nơi mình và nơi kẻ khác, nhạy bén
đối với sự cao cả thẳm sâu và sự
hiện diện gần gũi của Ngài trong những
biến cố lớn nhỏ thuộc cuộc sống
hằng ngày.
4. Đức Giêsu chính là Emmanuel, “Thiên
Chúa ở cùng chúng ta”. Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn khi
đọc TM Mt cho đến hết (Mt 28,20). Hôm nay
Người là Emmanuel để tiếp tục hỗ
trợ chúng ta trong hành trình trần thế, trong nỗ
lực loan báo Tin Mừng “cho muôn dân” và cứu độ
chúng ta bằng quyền năng của Đấng “đã
được ban cho toàn quyền trên trời dưới
đất”.
|