Thắc mắc của Gioan Tẩy Giả --- Suy
niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1.
Tại sao Gioan Tẩy Giả lại sai
môn đệ mình tới hỏi Đức Giêsu xem Ngài có
phải là Đấng Cứu Thế không? Theo ông nghĩ,
nếu Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Vua
Do Thái, thì ông sẽ đóng vai trò gì bên cạnh Ngài?
2.
Đức Giêsu đến có đúng theo sự suy nghĩ và lòng mong ước
của Gioan Tẩy Giả và của những người
Do Thái thời đó không? Nếu Ngài đến lần
thứ hai thì liệu có đúng theo
sự suy nghĩ và lòng mong ước của chúng ta không?
3.
Tại sao khi Đức Giêsu đến
lại có biết bao người vấp phạm vì Ngài? Vì
họ thiếu thiện chí, hay vì họ chấp nhất vào
nguyên tắc? Có thể rút kinh nghiệm lần Ngài
đến trước để khi Ngài đến lần
thứ hai ta khỏi vấp phạm vì Ngài không?
Suy Niệm
1. Thắc mắc
của Gioan Tẩy Giả
Gioan Tẩy Giả
là người được Thiên Chúa kêu gọi làm một
ngôn sứ, đồng thời làm vị Tiền Hô
để dọn đường cho Đấng Cứu Thế
đến. Ông rất ý thức điều ấy,
và đã hoàn thành nhiệm vụ ấy một cách hoàn
hảo. Chính vì thế, ông đã bị ngồi tù do dám
tố cáo những sai trái của chính quyền
đương thời là vua Hê-rốt. Tình
trạng khó khăn và tuyệt vọng trong tù dễ làm
người ta xuống tinh thần, vì thế, đức
tin của Gioan vào Đức Giêsu phần nào bị thử
thách.
Có thể lúc đó
ông tự hỏi: Nếu Đức Giêsu là Đấng
Cứu Thế mà ông có sứ mạng tiền hô cho Ngài, thì
tại sao ông lại phải ngồi tù thế này? Nếu
Ngài là Đấng Cứu Thế, thì ắt hẳn Thiên Chúa
phải để ông ơ ngoài hầu hợp tác với
Ngài thiết lập triều đại mới chứ! Ông
sẽ phải là cánh tay mặt của
Ngài chứ! Chắc chắn Gioan cũng quan niệm như
mọi người Do Thái khác rằng Đấng Cứu
Thế sẽ giải phóng dân Do Thái và sẽ trở thành một
vị Hoàng Đế cai trị toàn
cầu. Vì thế, khi Ngài đã bắt
đầu ra mặt mà ông vẫn còn phải ngồi tù thế
này thì quả là khó hiểu? Do đó, ông đã sai môn
đệ của ông đến gặp Đức Giêsu
để hỏi cho rõ. Và họ đã
đến gặp Ngài.
2. Những
điều ứng nghiệm nơi Đức Giêsu,
Đấng Cứu Thế
Đức Giêsu
đã không trả lời trực tiếp bằng cách xác
định mình chính là Đấng Cứu Thế, nhưng
trả lời gián tiếp bằng những dấu hiệu
mà trước đó khoảng 700 năm ngôn sứ I-sa-i-a
đã tiên báo về thời đại của Đấng
Cứu Thế: “Người mù xem thấy, kẻ què
được đi, người cùi được
sạch, kẻ điếc được nghe,
người chết sống lại, kẻ nghèo
được nghe Tin Mừng” (xem Is 26,19; 29,18-19; 35,5-6a;
61,1). Đó là những điều mà
Đức Giêsu đã dùng quyền năng của mình
thực hiện trước mắt mọi người.
Thử đặt
mình vào địa vị Gioan Tẩy giả và người
Do Thái thời ấy xem, ta có thể tin được Ngài
là Đấng Cứu Thế không, khi mà đầu óc ta
cứ nghĩ rằng Ngài sẽ giải phóng đất
nước Do Thái bằng binh hùng tướng mạnh,
bằng chính trị và quân sự? Thế mà hiện tại
trước mắt, Ngài chỉ là một thầy
đạo không một tấc sắt trong tay!
Làm sao tin được Ngài là Đấng
ấy, nhất là khi thấy Ngài bị nộp và bị
đem đi giết như một tội nhân?
Chính vì thế, ngay
từ lúc này Ngài đã nói: “Phúc thay người nào không
vấp ngã vì tôi”. Liệu câu nói ấy có
ứng cho chính chúng ta khi Ngài trở lại không?
Nếu Ngài trở lại theo một cách
thức thật bất ngờ, không đúng như cách ta
vẫn thường nghĩ, liệu ta có vấp ngã vì Ngài
không? Vì nếu Ngài trở lại đúng theo
cách ta thường nghĩ, thì lời Ngài tiên báo là sẽ
đến “như kẻ trộm” đâu còn đúng nữa?
Vậy, ta cần phải tỉnh táo khi Ngài
đến để khỏi vấp ngã vì Ngài.
3. Đức Giêsu
đến để thực hiện một cuộc cách
mạng tôn giáo.
Tôi e rằng khi Ngài
đến lần thứ hai, rất nhiều người
sẽ vấp ngã và xúc phạm đến Ngài như lần
Ngài đến trước, vì Ngài sẽ không đến theo như quan niệm của họ, nhất
là về mặt tư tưởng và giáo thuyết. Lý do:
Nhân loại luôn luôn
tiến hóa và đổi mới. Vì thế, các tôn giáo vốn là
phương tiện phục vụ con người, dẫn
con người đến với Thiên Chúa - cũng phải
thay đổi theo để phục vụ con người
một cách phù hợp và hữu hiệu hơn. Hiện nay,
nhân loại đã bước sang thời đại
internet, toàn cầu hóa, với tinh thần khoa học
thực nghiệm, kỹ thuật hết sức tân
tiến. Về mặt chính trị, nhân loại không còn
chấp nhận được những chế độ
độc tài, bưng bít thông tin, tự do hà hiếp bóc
lột dân chúng. Những quan niệm tôn giáo
cũ có thể thích hợp với nhân loại cũ,
thời đại cũ, với những quan niệm khoa
học cũ. Nay nhân loại đã
đổi mới, những quan niệm và thể chế
tôn giáo không thay đổi để phù hợp sẽ
bị đào thải. “Không ai đổ rượu
mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu
mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra và bầu
cũng hư” (Lc 5,37). Đương
nhiên trong tôn giáo có những điều cốt tủy không
bao giờ thay đổi được. Vấn đề quan trọng là phân biệt cái nào
có thể thay đổi và cái nào là cốt lõi không thể
thay đổi được.
Tôn giáo và luật
lệ của tôn giáo là một cái gì linh thiêng, thần thánh,
được hiểu là do Thiên Chúa thiết lập,
được vĩnh cửu hóa và tuyệt đối hóa
bằng những lời chắc nịch trong Kinh Thánh
(chẳng hạn: St 9,12; Xh 12,14; 32,13b; Đnl 29,28; 1 V 8,13; Tv
98,5; và vô số câu khác). Vậy thì con người nào ai dám
thay đổi? Chỉ có những Đấng
Thiên Sai như Đức Giêsu mới có thể làm chuyện
ấy. Chính Đức Giêsu đã thực hiện
một cuộc cách mạng vĩ
đại về tôn giáo. Và cũng chính vì làm cuộc cách
mạng ấy Ngài mới bị giết bởi tay các nhà lãnh đạo tôn giáo cũ. Thế
là, như ta đã biết, vô số người đã vì
Ngài mà vấp ngã!
4. Cuộc cách
mạng tôn giáo của Đức Giêsu
Tôn giáo Do Thái do Thiên
Chúa thiết lập nhưng do Mô-sê hình thành. Những
luật lệ do Mô-sê ban hành được coi là linh thánh và
vĩnh cửu, vì được hiểu là luật của
Thiên Chúa. Nhưng thật ra luật ấy
chỉ phù hợp với trình độ văn hóa và tâm linh
của dân Do Thái thời thượng cổ. Luật ấy được xây dựng trên
sự sợ hãi của dân chúng. Tương tự
như khi con người còn là một đứa trẻ,
muốn nó sống tốt thì không thể chỉ dùng lời
khuyên và trông chờ vào sự hiểu biết của nó mà
được. Lời khuyên hay mệnh lệnh phải
đi đôi với roi vọt. Đối với một
đứa trẻ, chỉ cần nó sợ roi để làm
theo những mệnh lệnh của
người lớn là đã đạt yêu cầu, và
chỉ cần như thế nó đã được coi là
một đứa trẻ ngoan. Tôn giáo thời Cựu
Ước ứng với phương pháp giáo dục dành
cho trẻ con, không thể trông mong vào sự ý thức,
hiểu biết, hay tình yêu của con người
được. Tiêu chuẩn của sự
công chính vào thời này là chỉ cần giữ luật cho
đúng là được. Và người Pha-ri-siêu
thời Đức Giêsu chính là mẫu người
được coi là trọn hảo của thời Cựu
Ước. Không ai còn có thể giữ luật trọn
vẹn hơn họ!
Nhưng từ Mô-sê
đến Đức Giêsu, dân Do Thái đã trải qua
khoảng 1250 năm, trình độ văn hóa và tâm linh
của họ đã thay đổi. Họ đã thoát
khỏi giai đoạn tạm gọi là “trẻ con”
của họ để bước sang một giai
đoạn trưởng thành hơn. Do đó, tôn giáo
cũng phải thay đổi để thích hợp
với trình độ mới của họ, và chính
Đức Giêsu là người có sứ mạng thực
hiện sự thay đổi ấy. Tôn giáo
mới không còn được xây dựng trên sự sợ
hãi nữa, mà xây dựng trên nền tảng tình yêu. Dân
Do Thái hay nhân loại lúc này được so sánh với
một con người đã bước vào tuổi thanh
niên. Cha mẹ không còn giáo dục anh chàng theo
kiểu roi vọt nữa, mà mong đợi nơi anh
sự ý thức tự giác và tình yêu. Lúc này, nếu anh
học hành hay làm việc chỉ vì sợ cha mẹ đánh
đòn, thì anh không còn được coi là hay là tốt
nữa, mà phải do một động lực khác thúc
đẩy: chẳng hạn do biết tự lo lắng cho
tương lai, do biết yêu thương và làm hài lòng cha
mẹ, muốn làm nở mày nở mặt cho gia tộc. Vì
thế, cách sống hay giữ đạo “vị luật”
của người Pha-ri-siêu không còn được
Đức Giêsu coi là công chính nữa: “Thầy bảo cho anh
em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các
kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng
được vào Nước Trời” (Mt 5,20).
Những cuộc cách
mạng vĩ đại về tôn giáo
như Đức Giêsu đã từng thực hiện
chắc chắn thời nào cũng bị những
người đương thời chống đối vì
chưa nhận ra sự hợp lý của nó. Họ
còn chấp vào những hiểu biết cũ, quan niệm
cũ, nguyên tắc cũ đã được nhập tâm
từ nhỏ, và được coi là những chân lý
bất di bất dịch. Họ cảm
thấy cần bảo vệ những chân lý ấy. Chính vì thế rất nhiều người vấp
phạm khi Ngài đưa ra những quan niệm mới,
nguyên tắc mới.
Để nói lên
sự ưu việt của thời “hậu cách mạng” do
Đức Giêsu, Ngài đã đưa ra một thí dụ
điển hình: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm
nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao
trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy
nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao
trọng hơn ông”. Gioan Tẩy Giả là mẫu
người công chính của Cựu Ước, sự công
chính của ông không thể sánh ngang với sự công chính
của thời Tan Ước được. Thật vậy, về tinh thần và phong cách
sống đạo, giữa Gioan Tẩy giả và
Đức Giêsu, giữa các môn đệ của hai vị
có sự khác biệt rõ rệt. Điển hình như:
“Các môn đệ ông Gioan tiến lại hỏi Đức
Giêsu rằng: "Tại sao chúng tôi và các người
Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?”“ (Mt 9,14; Mc 2,18).
Vậy, chúng ta hãy
tỉnh táo để khi Đức Giêsu đến lần
thứ hai, với những bất ngờ không dè
trước được, chúng ta không vấp phạm vì
Ngài: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (Mt 11,6).
Cầu nguyện
Lạy Cha, lần trước Đức
Giêsu đến đã có biết bao người vấp
phạm vì Ngài. Xin cho con rút ra được những kinh
nghiệm và bài học quí báu từ những sự kiện
trong Tin Mừng để khi Ngài đến lần thứ
hai, chính con nhờ đó sẽ không vấp phạm vì Ngài.
Xin giúp con sáng suốt nhận ra kinh nghiệm và bài học
ấy. Amen.
|