MÙA VỌNG: MÙA
MÀU HỒNG --- Suy niệm của ĐGM. GiuseVũ
Duy Thống
(Trích trong
‘Nút Vòng Xoay’ – trg. 19)
Nếu khởi
đầu Mùa Vọng là một màu xanh của những tâm
hồn biết rằng Thiên Chúa hằng hy vọng vào mình và
hành trình Mùa Vọng là một màu tím của những cuộc
đời sám hối, thì ở giữa lòng Mùa Vọng,
đời người đã được đặt vào
một vận hành mới với một năng lực
mới cho một cuộc đời mới. Những cái mới
ấy Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay diễn tả
bằng một niềm vui và lễ phục minh họa
bằng một tông màu bất ngờ tươi sáng
để cùng với Giáo Hội, Chúa Nhật hôm nay xin
được gọi tên Mùa Vọng là mùa màu hồng.
Vâng! Màu
hồng. Nhưng không phải là một thứ ửng
hồng e lệ của tình yêu buổi đầu gặp
gỡ, cũng không phải là thứ bột hồng
điểm trang của hương phấn trong ngày lễ
hội, mà chính là màu hồng của niềm vui chan hòa và
những chí bền chiến đấu đã làm nên sức
sống và sức mạnh không ngừng gieo hưng phấn
trên hành trình đức tin.
Qua cách gọi tên Mùa
Vọng là mùa màu hồng, xin
được gợi ý về hiệu quả của
niềm hy vọng.
1) Niềm hy vọng
đem lại cho đời tín hữu một niềm vui
chan hòa.
Không phải vô
cớ mà thánh Phaolô năm xưa đã kêu gọi các tín
hữu của mình “Hãy vui lên!”
cũng chẳng phải tình cờ khi Phụng Vụ
gọi Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng là Chúa Nhật
của niềm vui, mà tất cả đã là một hữu
ý dàn dựng để làm nổi bật lên nỗi vui mừng
và niềm hy vọng không phải như hai nỗi niềm
đặt cận kề nhau, mà như hai yếu tố
tương tại vào nhau của cùng một nỗi
niềm duy nhất kết nên đời sống Kitô
hữu. Có hy vọng là có niềm vui.
Bởi có hy vọng
nên đời tín hữu cũng có một vũ trụ quan
tươi vui: Họ không chấp nhận cuộc
đời theo kiểu “cũng liều
nhắm mắt đưa chân” trôi nổi vật vờ theo
dòng nước cuốn, mà là đón nhận cuộc
đời bằng một phong thái thanh thản vui tươi.
Họ không chấp nhận nhìn môi trường mình đang
sống như những sự kiện bên lề mà biết
nhận ra đó chính là nơi mình được kêu gọi
đến để thể hiện ơn gọi làm
người và làm con Chúa. Cho dẫu cuộc
đời có thế nào cũng vẫn có đó niềm hy
vọng vươn cao. “Trong khi chưa có
được điều mình thích, hãy bắt đầu
bằng cách thích những điều mình đang có”. Tôi muốn một cuộc đời rộng
đẹp nhưng trước mắt tôi vẫn chỉ là
những mảnh đời chật hẹp thì trong niềm
hy vọng, tôi phải bắt đầu bằng cách
nới rộng đời mình ra.
Bởi có niềm hy
vọng nên đời tín hữu cũng có một nhân sinh quan chan hòa. Trong
đại dương không ai là một hòn đảo.
Trong chuyến đi cuộc đời chẳng ai là
người lữ khách cô đơn. Thế
nên, trong tinh thần liên đới, tín hữu là những
kẻ đồng hành và đồng hành cũng có nghĩa
là biết cho đi và nhận về. Cũng
giống như tình yêu, hy vọng là rộng mở, là
biết cho đi. Trong đổi chác,
không ai có thể cho cái mình không có, nhưng trong niềm hy
vọng, không ai có thể có được điều mà
mình không biết cho đi. Bởi lẽ
bạc tiền cho đi sẽ có lúc vơi cạn, nhưng
niềm hy vọng biết cho đi thì ngược lại,
bỗng trở nên phong phú lạ thường. Nỗi
vui cho đi sẽ thành nỗi vui lớn hơn của
kẻ cho và người nhận gộp lại, và niềm
hy vọng biết cho đi sẽ nên niềm hy vọng vĩ đại của một sự
sống triển nở sinh sôi.
Rõ ràng là với
niềm hy vọng, cuộc sống đã biến thành
niềm vui, cho dẫu niềm vui ấy chưa ở
độ tinh ròng mà vẫn còn đan xen với những
nỗi niềm riêng tư hay nỗi lo đại cuộc,
nhưng đã hồng hào lên một sức sống
tươi trẻ vì đó chính là thành quả của
niềm hy vọng.
Chắc cộng
đoàn còn nhớ Đức Thánh Cha Gioan Phaolô I. Triều
đại Giáo Hoàng của ngài chỉ có ba mươi ba ngày
nhưng hình ảnh của ngài thì thế giới khó mà quên. Đó
là hình ảnh của một Giáo Hoàng với nụ
cười thật tươi, nụ cười trong
hồn và nụ cười ngoài miệng. Chính ngài là
người đã lập lại quan điểm của
thánh Tôma để chủ trương: vui vẻ là một
nhân đức. Và Mẹ Têrêsa Calcutta, một trong
mười phụ nữ được xếp vào hàng vĩ nhân hiện đại, khi người
ta hỏi Mẹ xem phải làm gì cho cuộc sống tốt
hơn, Mẹ bảo: “Hãy mỉm cười. Cười là thông điệp hòa bình. Cười là nếm cảm thực tại Thiên
Chúa”.
2) Niềm hy vọng
đem lại cho đời tín hữu một chí bền
chiến đấu.
Những lúc an bình, niềm hy vọng mở ra một
cuộc sống tươi vui nhưng khi gặp phải
thử thách, niềm hy vọng lại trở nên sức
mạnh kiên cường. Chính vì thế, hy
vọng không chỉ được xem là nhân đức
của nụ cười mà còn được khẳng
định là nhân đức của sự chiến
đấu trước những thách đố không
thiếu trong đời.
Có những thách
đố đến từ những nghịch lý trong đời sống đức tin
thể hiện qua những câu hỏi “tại sao?” khó mà
trả lời nếu không có niềm hy vọng. Như câu
hỏi tại sao của Cựu Ước: “Tại sao
kẻ lành thường gặp hoạn nạn còn kẻ
dữ lại cứ phây phây?”. Như câu
hỏi của thánh Phaolô: “Tại sao điều tốt
muốn làm tôi lại chẳng làm, còn điều xấu
muốn tránh tôi lại hay vấp phải?”.
Như câu hỏi về Giáo Hội: “Tại sao Giáo Hội
bản chất là duy nhất mà trong lịch sử vẫn
cứ mãi ghi dấu bằng những cuộc phân ly?”. Như câu hỏi của các bạn trẻ
Tây Ban Nha đặt ra cho Đức Gioan Phaolô II năm 1982:
“Tại sao Thiên Chúa tốt lành mà trong tạo thành của
Ngài lại có quá nhiều tội ác?”.
Như câu hỏi của báo chí: “Tại sao người ta
cứ phải lo đề phòng đối phó mà không
biết yêu thương nhau?”. Hay như
câu hỏi mỗi người thường đặt ra
với lòng mình: “Tại sao nhân đức như lúa tốt
chăm hoài vẫn khó mọc còn nết xấu như
cỏ dại nhổ mãi vẫn cứ còn?” Những
câu hỏi ấy được đặt ra và còn
được đặt ra mãi mãi. Sẽ
là hoang mang chao đảo nếu không tìm được
giải đáp; nhưng sẽ không có câu trả lời
đích thực nếu không nại đến niềm hy
vọng vào điều toàn bích vốn chỉ có nơi Thiên
Chúa và trong cuộc sống mai sau.
Có những thách
đố đến từ những nghịch biến trong lối sống đạo
như sự ly thân giữa giáo lý tốt lành của
đạo với đời sống kèn cựa của
người tín hữu, như cách sống thực dụng
của một số thành phần có đạo, như xu
hướng tục hóa đang có nguy cơ tràn lan, và phổ
biến nhất vẫn là thái độ “mackeno” dửng
dưng với đạo của một số kẻ
tự nhận là có đạo mà thực tế chẳng
tốt hơn ai. Sẽ là dị ứng co
cụm nếu chỉ thở dài thất vọng, nhưng
sẽ là bản lĩnh hy vọng nếu biết
vươn lên khẳng định niềm tin.
Và cũng có những
thách đố đến từ những nghịch cảnh trong cuộc đời như
tai nạn bất ưng, như sức khỏe yếu kém,
như hoàn cảnh không thuận lợi cho ngành nghề,
như những thất bại nhiều mặt. Sẽ là
thất vọng nếu cúi gập trên nỗi đau của
mình, nhưng sẽ là hy vọng nếu biết vươn
lên, cho dẫu hoàn cảnh có tuyệt vọng đi nữa
thì ở đó vẫn cứ sáng rỡ một niềm
cậy trông.
Trọn trang Tin
Mừng hôm nay là một thách đố không nhỏ mà Gioan
Tẩy Giả đã gặp phải: rao giảng về
một sự trừng phạt đến cận kề nhưng
lại gặp phải sự chậm trễ; loan báo về
Đấng Cứu Thế như một vị Chúa oai phong
đáng sợ nhưng lại thấy Chúa Giêsu chan hòa nhân ái;
công bố về thời mở cửa cứu độ
nhưng chính mình lại bị cầm tù vào giữa lúc
mọi người xôn xao hạnh phúc. Đã có lúc nóng lòng
chờ đợi như việc gửi môn đệ
đến chất vấn Chúa Giêsu qua đoạn Phúc Âm hôm
nay, nhưng từ những thách đố ấy, nơi
Gioan Tẩy Giả đã chứng minh một niềm hy
vọng kiên cường: ông không phải là cây sậy
yếu mềm chao nghiêng trước gió mà chính là một
tượng đài bất khuất của lẽ cậy
trông.
Niềm hy vọng
chính là sức mạnh hồng hào giúp Gioan Tẩy Giả và
tất cả những ai đang gặp thách đố
biết kiên vững kinh qua tất cả.
Tóm lại, với
hiệu quả của niềm hy vọng là niềm vui chan
hòa và chí bền chiến đấu, đời sống
của tín hữu đã được đặt vào một
vận hành mới vươn tới một điều còn
lớn lao hơn cả chính nỗi niềm
của mình. Đó không chỉ là chân lý cho trí ta
đong đầy, không chỉ là thiện hảo cho lòng ta
mê thích, cũng không chỉ là nét đẹp cho mắt nhìn no
thỏa mà chính là một Đấng, Đấng ấy là
Thiên Chúa hằng hy vọng vào ta. Và như thế,
thiết tưởng đã đến lúc đặt ra
vấn đề: liệu ta có niềm hy vọng ấy
chưa?
Bài đọc
thứ nhất nhắc nhở “Đừng
sợ”. Đừng sợ không có niềm hy
vọng vì trước khi ta có thể hy vọng thì Chúa
đã hy vọng vào ta. Đó là một
hồng ân. Cũng đừng sợ mình
mất niềm hy vọng như thể ta sống có
một mình. Có một Đấng cùng
sống với ta và Đấng ấy không dễ gì
để mất ta đâu. Cũng
đừng sợ niềm hy vọng của ta sao quá
nhạt nhòa, bởi hy vọng là một công trình cả
đời. Điều đáng sợ
đáng ngại và đáng đau khổ nhất là “thấy
Thiên Chúa bị bóp chết trong một đời
người”, nghĩa là người ta khước từ
hy vọng, bóp nghẹt hy vọng nhân danh sự tự do
hoặc danh lợi thú.
Bài đọc
thứ hai khuyến khích “Hãy vui
lên!”
Vui vì ta là niềm hy vọng trong mắt nhìn cứu
độ của Thiên Chúa và đồng thời cũng là
niềm hy vọng thắp sáng cho anh em mình nữa,
để không chỉ gây thắc mắc “nghĩ gì vui
thế mà cười một mình” như Trần Tiến
trong ca khúc “Thành phố trẻ”, mà còn để chuyển
tải đến môi trường xung quanh một niềm
vui chan hòa và chí bền chiến đấu.
Ai đã coi cuốn
phim “Cuộc đời Chúa Cứu Thế” chắc còn
nhớ lúc kết, sau khi đã có biến cố lên trời
và lời trao sứ vụ đến với muôn dân,
người ta cho xuất hiện trên màn ảnh một chân
dung của Chúa Giêsu thật lớn tươi cười
với chiếc răng khểnh đàng hoàng. Không
biết dụng ý của đạo diễn thế nào,
nhưng phải nói là có tác dụng phấn khích, vừa
đem lại nét tươi tắn cho cuốn phim, vừa
đem đến niềm vui chan hòa hy vọng.
Mong rằng nụ
cười thật lạ ấy cũng trở thành
niềm vui cho ta trên nẻo sống đức tin và thể
hiện niềm hy vọng. Được như thế, Chúa
Nhật hôm nay đích thực là Chúa Nhật của niềm
vui, và Mùa Vọng cũng thêm sáng nghĩa là mùa màu hồng hy vọng thật đẹp
thật tươi thật nhiều nụ cười cho
người người hạnh phúc.
|