Đi đến cùng sứ vụ
– Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Ngày 5/12, cựu
tổng thống Nam Phi-Nelson Mandela qua đời ở tuổi
95. Ông là người lãnh đạo phong trào xóa bỏ
chế độ phân biệt chủng tộc Apartheid ở
Nam Phi, giúp cho người da đen được
hưởng các quyền bình đẳng như thiểu
số da trắng.
Bước ra ánh sáng
sau 27 năm bị giam cầm vào năm 1990, việc
đầu tiên Mandela làm là tìm cách hòa giải một dân
tộc bị chia rẽ bởi thù hận và định kiến
trong hàng thế kỷ qua.Ông hiểu rằng hòa giải
không thể thiếu sự thật: nếu tội ác
của chế độ Apartheid không được làm sáng
tỏ và công lý không được thực thi thì
người dân Nam Phi sẽ sống trong một nền hòa
bình rất mong manh, chỉ cần một biến cố
nhỏ là bạo lực sẽ lại bùng phát.
Ông biết rằng,
nếu đi tìm công lý bằng một cuộc tắm máu
khác, chắc chắn đất nước sẽ bị
đẩy vào vòng nội chiến.Ông đã dùng tài ngoại
giao, trí thông minh, và cả trái tim bao dung của mình
để “đi trên dây” giữa hai làn ranh giới.Một
mặt ông đi gặp những nhà lãnh đạo của
người Afrikaner, chủng tộc da trắng nắm
quyền trong chế độ apartheid để đàm phán
về tương lai đất nước. Mặt khác,
ông tích cực thuyết phục quần chúng giận dữ
phải giữ bình tĩnh vì lợi ích chung.
Ông nói với
những thành phần cực đoan muốn trả nợ
máu với người da trắng ở Johannesburg vào năm 1993: “Tôi là lãnh đạo của
các bạn. Nếu các bạn không cần tôi nữa, thì tôi
sẽ lui về nghỉ. Nhưng chừng nào tôi còn làm lãnh
đạo, tôi phải lên tiếng rằng: điều
chúng ta đang làm là rất sai”. Đám đông này sau đó
tự động giải tán.
Để xử lý
vấn đề tội ác của chế độ
Apartheid, Mandela đã lựa chọn một giải pháp mà
chưa từng một lãnh đạo nào trong hoàn cảnh
của ông thực hiện.Thay vì tạo ra một phiên toàn
xét xử tội ác của chế độ như thông
thường, ông cho thành lập “Ủy ban Sự thật và
Hòa giải” với mục đích đúng như tên gọi
của nó: làm lành đi những vết thương quá
khứ. Nạn nhân kể về những tội ác mà
họ đã chứng kiến hoặc trải qua
dưới chế độ apartheid, và những kẻ
cầm quyền cũ sẽ được khoan hồng
nếu thừa nhận những tội ác mà họ gây ra.
Với tài năng
của một chính trị gia, và hơn tất cả là
một trái tim biết khoan dung, Nelson Mandela đã tạo ra
sự khởi đầu cho điều kỳ diệu
ở Nam Phi: từ một quốc gia bị chia rẽ sâu
sắc bởi chủng tộc, Nam Phi trở thành một
“đất nước cầu vồng,” nơi tất
cả màu da đều được tôn trọng và
đối xử bình đẳng. Nam Phi vươn lên thành
quốc gia giàu nhất ở lục địa Đen, có
mặt trong nhóm các quốc gia “quyền lực mới”
BRICS, và xây dựng lên một xã hội tự do và hiện
đại (x. Khắc Giang, tuanvietnam.net).
Ông Mandela đã
trải qua gần 30 năm ngục tù vì cuộc đấu
tranh đòi quyền bình đẳng cho người da màu.
Vị Tổng thống này đã được trao
giải Nobel Hòa bình vào năm 1993.
Lên tiếng cho Sự thật và
lương tri, Thánh Gioan Tiền Hô, vị Ngôn sứ công lý
bị nhốt vào tù ngục. Xã hội Do Thái thời Gioan có
rất nhiều tệ đoan. Quốc gia bị chính
quyền La Mã đô hộ. Trong nội bộ lại có
sự chia rẽ trầm trọng giữa các đảng
phái chính trị và tôn giáo. Bất công, tham nhũng và vô luân
lan tràn từ trên xuống dưới, nơi những nhà
lãnh đạo dân sự cũng như tôn giáo.Vua Hêrôđê có
đời sống loạn luân, cướp vợ của
em trai mình. Người ta cảm thấy rất khó chịu
khi có ai dám sửa sai, dám nói thẳng về những lỗi
lầm của mình. Người cầm quyền càng khó
chịu hơn và thường dùng quyền lực
để đàn áp. Vì thế quyền lực thường
tạo nên sợ hãi và im lặng. Gioan rất nhạy bén
trước tội lỗi nên đã can đảm tố
cáo tội của tiểu vương Hêrôđê, bất
chấp hậu quả tù đày. Hêrôđê người
đàn ông quyền lực và ham mê sắc dục, gian dìu với
Hêrôđiađê, người đàn bà đẹp nhưng ham
mê quyền bính. Hai con người đó làm nên bi kịch
của lịch sử. Ai cũng sợ hãi, không dám nói.
Chỉ có Thánh Gioan Tiền Hô lên tiếng phản
đối nên đã bị tống giam. Bênh vực công lý,
nói lên sự thật đã đưa Gioan tới cái
chết. Chết là cái giá rất đắt cho chứng nhân
bảo vệ công lý, bảo vệ thuần phong mỹ
tục, bảo vệ cho các giá trị đạo
đức truyền thống.
Theo truyền thống Do thái, đa
số ngôn sứ đều là những người bị
ngược đãi, bị bách hại và bị giết
chết. Truyền thống nói rằng ngôn sứ Isaia
bị xử tử, ngôn sứ Mikha bị lăng nhục,
ngôn sứ Giêrêmia bị đánh đòn và bị tống giam
vào tù, chưa nói đến biết bao ngôn sứ bị
giết chết dưới triều đại vua Akháp và
vua Giôakim, và cũng có thể dưới triều
đại vua Manasê vô đạo. Ngôn sứ Gioan thật
cương nghị với lối sống không hề cúi
gập người lại trước những bậc
quyền quý (x.Mt 14,3-12). Thực thi công lý nên Gioan là một
ngôn sứ nói nhân danh Thiên Chúa và đáng tin (x.Mt 21,26.32).
Thánh Gioan đã từng trải qua
những giờ phút vinh quang khi dân chúng kéo đến
với ông trong sa mạc, bên bờ sông Giođan xin ông làm
phép rửa. Giờ đây, thời vàng son đã khép lại.
Chỉ còn các môn đệ liều mình vào tù thăm nuôi
rồi kể chuyện bên ngoài cho Gioan nghe.
Thánh Gioan băn khoăn lo lắng khi
nghe tường thuật về Chúa Giêsu thường giao du
với những kẻ tội lỗi, vào trong nhà
người tội lỗi, đồng bàn với họ và
tha thứ tội lỗi cho họ. Ngôn Sứ Tiền Hô
đang ở trong tù mà không được Đấng
Cứu Thế đến giải thoát.Nổi khắc
khoải cào cứa trong lòng.Vì thế, Gioan đã sai các môn
đệ đến hỏi thẳng Chúa Giêsu: “Thưa
Thầy, Thầy có thật là Đấng phải
đến không, hay là chúng tôi còn đợi ai khác?”.
Trước đây, Gioan đã từng
giới thiệu về Chúa Giêsu cho dân chúng: “Tôi lấy
nước mà rửa anh em, song có Đấng đến sau
tôi, tôi không xứng đáng cởi giây giày cho Người”
(Mt 3,11); “Chính Đấng ấy sẽ rửa anh em bằng
nước và Thánh Thần”. Gioan cũng đã giới
thiệu với các môn đệ về Chúa Giêsu: “Đây
chính là chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga
1,29).
Gioan không ngừng loan báo cho dân chúng uy
thế của Đấng sẽ đến. Theo cách
diễn tả cùng với những hình ảnh kèm theo,
dường như chính ông cũng đang mong chờ
Đấng ấy như một vị thẩm phán nghiêm
minh. Đấng ấy sẽ không nương tay, Nguời
sẽ thực thi công bình và sẽ tiêu diệt, sẽ “rê
sạch thóc”, sẽ đem số “thóc lép”, tức là
những kẻ làm điều gian ác, ném vào lửa
đời đời. Đối với Gioan, Đấng
Cứu Thế đến giải phóng Ít-ra-en cả trong phạm
vi trần thế nữa, về chính trị và kinh tế
như kiểu một vị vua Do Thái bách chiến bách
thắng để đem vinh quang nước Ítraen lên
tột đỉnh. Gioan nóng lòng vì chưa thấy Chúa Giêsu
thực thi sứ vụ theo sứ điệp “dữ
dội” mà ông rao giảng, nên Gioan muốn hỏi rằng:
có phải Thầy là vị cứu tinh phải đến
để bài trừ những tệ đoan, bất công và
tham nhũng trong xã hội không?
Những lời nói và việc làm của
Chúa Giêsu lại không phù hợp với những gì ông đã
rao giảng. Chúa Giêsu xuất hiện như một vì tôi
tớ hơn là một Đấng quân vương.
Người cũng không giống như quan toà nghiêm minh
thẳng tay trừng phạt kẻ tội lỗi. Trái
lại, Người luôn luôn yêu thương, kêu gọi
họ trở về, đồng bàn với họ.
Đối với người nghèo khổ, bệnh
hoạn tật nguyền, Người hết mực yêu
thương, bao bọc chở che chăm sóc chữa lành
chứ không xa lánh khinh khi vì sợ lỗi luật như các
Rabbi. Chính vì thế, khủng hoảng niềm tin của
Gioan Tẩy Giả cũng là điều dễ hiểu.
Trong hoàn cảnh ngục tù, Gioan đã biết tìm
đến Chúa Giêsu để tìm sự giải đáp cho
những thao thức canh cánh trong lòng. Và Gioan đã tìm
thấy.
Chúa Giêsu không bị giới hạn trong
cái nhìn chật hẹp của Gioan. Người muốn
Gioan mở rộng tầm mắt với một lối
nhìn mới mẻ, phong phú hơn: Các anh cứ về
tường thuật cho ông Gioan những điều
mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què
được đi, người cùi được
sạch,người chết sống lại, và Tin mừng
được loan báo cho người nghèo khó” (Mt 11,4-5).
Như vậy, Chúa Giêsu đã trả
lời bằng cách trích dẫn ba đoạn văn Isaia
đều có hậu cảnh Mêsia: Is 29,17-18: người
điếc được nghe, người mù
được thấy; Is 26, 19: người chết
sống lại; Is 61,1: loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Chúa bảo họ hãy về thuật lại những
việc Chúa đã làm và những lời Chúa đã nói,
những điều đó đủ minh chứng
Người là ai. Những điều đó đã
được các ngôn sứ loan báo từ dọc dài
lịch sử rồi. Trả lời như vậy là Chúa
Giêsu gián tiếp bảo cho họ biết: Người không
phải là một vị cứu tinh đầy uy quyền,
đến giải phóng dân tộc Do Thái như họ mong
đợi. Đồng thời Chúa trực tiếp xác
nhận sứ mạng và quyền năng của
Người: là con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai đem
ơn cứu độ cho mọi người.
Chúa Giêsu còn biểu dương, ca
ngợi Gioan Tẩy Giả trước mặt dân chúng,
trước sự chứng kiến của các môn
đệ. Người tôn vinh ông, bởi lẽ ông là
một Ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các
Ngôn sứ. Người tôn vinh ông, bởi ông là con
người của khổ hạnh nơi hoang địa,
là vị Ngôn sứ được mong đợi, là vị
Tiền hô đến trước để dọn
đường cho Đấng Thiên sai như Ngôn sứ
Malakhi đã loan báo: “Này ta sai sứ giả của Ta đi
trước mặt Con, người sẽ dọn
đường cho Con đến”. Khi nghe môn đệ
thuật lại những điều này, Gioan Tẩy
Giả hẳn phải vui mừng, bởi Chúa Giêsu không
chỉ củng cố, không chỉ giải đáp những
hoang mang lo lắng của ông, Người còn khích lệ,
tán dương ông, giúp ông vượt qua những thử
thách ngục tù để có thể chấp nhận cái
chết tử đạo mà ông sẽ lãnh nhận không lâu
sau đó. Trong tù, Gioan đã có thời gian để chiêm
niệm.Cần phải thay đổi nhận thức và
quan điểm của mình về Thiên Chúa. Quyền năng
Thiên Chúa là quyền năng của tình thương.
Đấng Cứu Thế đi đến đỉnh cao
quyền năng là đồi Canvê và thập giá. Từ nay,
Gioan hiểu hơn về Đấng mà mình loan báo. Giờ
đây Gioan hiểu rằng, Đấng Mêsia mà ông loan báo
không phải đến trần gian theo những quan
niệm thuần tuý về chính trị, Người
đến để rao giảng nước Thiên Chúa và
cứu độ nhân loại. Thánh Gioan hạnh phúc an bình ra
đi sau khi hoàn tất sứ vụ của mình.
Thánh Gioan Tẩy Gỉa đã trải
qua những thách đố trong sứ vụ. Chính Ngài đã
giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế
nhưng khi lâm cảnh đau khổ ngục tù không thấy
ai giải thoát nên đâm ra nghi ngờ. Nhưng cuối cùng,
Gioan đã chứng minh một niềm hy vọng kiên
cường. Ngài không phải là cây sậy yếu mềm
chao nghiêng trước gió mà chính là một tượng
đài bất khuất của lẻ cậy trông. Hạng
người khom lòng cúi gập mình chẳng bao giờ có
thể trở thành người tử đạo. Gioan không
phải là một người bình thường cũng không
phải là người hèn yếu như cây sậy bị
xiêu đổ dưới cơn gió. Niềm hy vọng chính
là sức mạnh giúp Gioan và tất cả những ai
đang gặp thách đố biết kiên vững kinh qua
tất cả.
Khi chúng ta gặp đau khổ thử
thách, đức tin, lòng cậy trông, niềm hy vọng
bị lung lay chao đảo. Hãy nhớ Thánh Gioan đã
chịu như thế và các tiên tri trong lịch sử
cũng mang tâm trạng như vậy. Thánh Gioan không chết
trong thất vọng mà chết trong đức tin, chết
trong niềm hy vọng, đã đi cho đến cùng
sứ mạng làm chứng cho Tin mừng.
|