CHÚA VỚI TÔI
CHƯƠNG 9
Trong vòng tay Thánh Tâm.
Ngày 11 tháng 9 năm 1941. Lúa mì Chay dâng hiến là một với con cho Chúa Cha thân thể Cha đẫm máu, con phải tin, trong trời đất có xảy ra một cái gì chứ? Những đau khổ của Cha phải có một ích lợi gì chứ? Vậy còn bổn tính tốt lành của Chúa Cha con đã bỏ đi đâu? Mọi lời cầu nguyện đều có tiếng vang mà con không hay … hãy xin đi con, hãy cầu xin đi.
Trong một buổi lễ nhạc. Khi nào người bạn tâm giao của con có mặt trong một cuộc lễ, thì cuộc lễ đó sẽ vui cho con bằng hai, tại vì trong ý con nghĩ: bản nhạc đó hai có ảnh nghe … cái đó đẹp có ảnh thấy. Con cứ tưởng người bạn cao cả của con có ở đây, luôn với con, tham dự vào đời sống của con. Vậy thì tất cả cái gì con cũng phải chia sớt với người, Làm vậy thì con được sống vui bằng hai. Từng giây phút con có thể nghĩ tưởng: Không chừng người bạn tôi tới kêu tôi như Ý Người có muốn. Rồi tâm hồn con sắp soạn để được âu yếm trước khi trẩy đi và để được âu yếm trong khi gặp gỡ. Ôi! giờ gặp gỡ dịu dàng! ... Chút ấy màn che mỏng mảnh sẽ xé ra, mà chúng ta sẽ liên hiệp với nhau đời đời, con có biết Cha náo nức thế nào không?
ngày 1 tháng 11 năm 1941. Lễ Các Thánh Nam Nữ. Trong buổi lễ nhạc. Có tiếng nói: Những chỗ thần dữ bỏ trống trên Thiên Đàng vẫn còn đó chưa có ai chiếm. Tất cả chúng con mỗi người đều được kêu ngay tới tên. Ôi, các con bé nhỏ của Cha, khốn nạn biết bao nhiêu nếu chúng con không lên tiếng …Giả tỷ như có một người giàu sang có một ngôi nhà lớn trên một chót núi, người ấy mời những kẻ ở dưới núi lên trên chót núi ở chung một nhà với người ấy, mà mấy người ở dưới núi, sợ leo lên chót núi mệt, nên không chịu, leo thử cũng không chịu. Con tưởng sao, người giàu sang kia, biết rõ những cuộc vui lớn lao trong lâu đài mình, mà người đó thấy mấy người ở dưới núi lôi thôi như vậy, người đó buồn hết sức hết lòng hay không? Con hãy giúp Cha để làm cho tất cả mọi người đi lên, lại với con hãy xin kẻ đã tới nơi rồi tiếp với chúng ta.
ngày 18 tháng 2 năm 1942. Lúc tôi đang vào nhà thờ: Nãy giờ Cha đợi con, con thinh lặng sấp mình dưới chân Cha đi. Cha nói thinh lặng nghĩa là con phải dẹp đi các ý nghĩ, tất cả các nhớ nhung về những sự dưới đất này. Cha muốn cho con hoàn toàn thuộc về Cha. Con muốn vậy không? Cha không muốn lấy ngang cái gì hết. Biết mấy lần rồi Cha cứ đợi … Không biết con có nhớ cái người điên mỗi ngày đi ngoài đường cứ nhớ như đi trước đứa con gái của nó đã chết đâu hồi nào? Còn Cha, Cha chờ đợi các con của Cha. Một số đã chết lâu rồi không còn được sống trong Ơn nghĩa. Con cầu nguyện cho họ tin lòng Cha thiết tha thương xót để họ làm cho Cha vui. Một số khác đang được sống như Thiên Chúa Cha trên trời, nhưng mà họ sao lãng vì mắc bận tâm lo lắng thâu góp tiền bạc. Còn những kẻ sống thân mật với Cha, những kẻ đã có hiểu Cha, hơn những tâm tư hao mòn vì sốt sắng lo việc trong nhà của Cha, những kẻ ao ước trở nên hạng yêu dấu nhất của Cha như Gioan, Ladarô, Madalena, những kẻ ấy uống tại nguồn mạch một thứ nước không bao giờ cạn. Mấy tiếng miệng Cha nói rỉ tai con vậy chứ con không thấy nó mới hoài sao? Vậy chứ con không gặp ở đó một sức mạnh mà chính con cũng lấy làm lạ sao?
Ngày thứ năm Tuần Thánh. Ngày lễ của Thánh Tâm Cha đó là ngày lập phép Bí Tích này ở giữa các Tông Đồ, các Tông Đồ mà lòng Cha lúc ấy âu yếm một cách không thể nào tả được. Trong mỗi một người, trong tận chốn tâm tư thân mật nhất của mỗi người.
Và Cha thấm tràn vào những kẻ ấy một cách ngọt ngào đến nỗi nhiều người sa nước mắt. Trong cuộc vui phước ấy một nỗi độc ác: là có mặt gã phản Chúa. Hồi đó Cha thương Giuda biết bao nhiêu, ôi gái nhỏ của Cha! Cha đau đớn quá! Thì con tưởng tượng như con mới lựa được một người bạn thân, rồi con thấy người bạn thân đó môi miếng bề ngoài mà kỳ thật đang bán nộp con một giá rẻ mạt cho kẻ nghịch của con … Giuda ôi! Con có muốn 30 đồng bạc tại sao con không đi tới Mẹ của Cha mà xin chắc Mẹ Cha thà bán nộp mình để cho Cha khỏi chết …Mà rồi Cha đã chịu Giuda hôn mặt … Thật ra lúc Cha thấy trước Giuđa lẩn quẩn trong vườn Giệtsimani thì Cha đã phải đau khổ nhiều lắm rồi. Lạy Chúa con xin mời Chúa ở lại trong vườn cây ngộ nghĩnh của con để an ủi Chúa vậy được không?
Chính con là linh hồn của cái vườn con. Hãy cho Cha bông hoa là những ý tưởng của linh hồn con. Lại như Cha hay biết con sốt sắng lo cho kẻ có tội, thì Cha quên được những nỗi âu sầu trong vườn Giếtsimani. Như con dâng lên cho Cha tình yêu tấm lòng con, hì Cha quên được lòng hiểm ghét, tính tham lam của Giuda. Như con đem trí con chan hòa thương xót mà nghĩ đến thân Cha khốn hèn như sâu bọ, thân Cha xấu xí như kẻ phung cùi, thân Cha nhuốc hổ như kẻ phải đòn bọng, thân Cha nhục mạ như kẻ phải án tử, thân Cha trằn trọc như kẻ chịu đóng đinh, tất cả mọi sự đều dang ra xa Cha, còn Cha, con kêu Cha thì Cha phú mình cho con, con tìm ra một điệu nói mới mẻ nồng nàn để làm cho Cha thấy lòng con yêu mến biết ơn Cha trong một chiều ngày thứ năm này: con biết không, biết là bao nhiêu bánh lễ người ta đã chịu.
Trong hai ta cái người có phước hơn hết, đó là Cha, con cứ luôn sống như Cha thấy con, con làm như một người tùy viên toà đại sứ, con đi tới với ai cũng đi với danh nghĩa của Cha.
ngày 23 tháng 3 năm 1942. Chịu lễ xong. Con biết không, có khi mấy khi mà con có dịp nhảy xuống sông để cứu người ta. Chỉ có những dịp nhỏ nhỏ thường thường mà con giúp đỡ anh em vì lòng mến Cha. Một cử chỉ đơn sơ, một cách tỏ dạ yêu thương lại với một bộ điệu duyên dáng. Sự Cha luôn luôn dòm coi trong con đó là ý chí của con. Ý chí, con hiểu không? như con làm không xong xuôi thì Cha cũng dễ dàng tha thứ.
ngày 6 tháng 8 năm 1942. Tất cả cái gì con có là của Cha cho. Vậy chớ Cha không có sức mà cho con bằng hai sao? Có phải bây giờ Cha không còn giàu có như hồi trước nữa sao? Hay là Cha không còn thương như hồi trước nữa? Có thể Cha làm cho con nên thánh trong giây lát. Nhưng mà Cha ưa con lần lần chịu nhục ra sức, như vậy con mới khiêm nhượng. Con phải làm sao cho được khiêm nhượng mà tại yêu mến, cái khiêm nhượng đó nó đưa con lên cao. Cái tật áy náy sờn lòng không bao giờ làm cho một linh hồn được nâng cao. Đi con, đi. Cha đi trên con đường núi Cavariô, khổ nhọc bao nhiêu Cha cũng vẫn đi, Cha đã tới nơi, coi Cha đây, rồi con được can đảm thêm, lại với con cho Cha một cái danh dự, là kêu Cha đến tiếp với con.
ngày 16 tháng 9 năm 1942. Con cứ thường hay nói đến Cha: Lạy Chúa là Đấng sinh dựng nên con, Chúa định về con đi gì xin Chúa cứ làm cho xong. Con chỉ mong ước một điều mà thôi, làm cho Nước của Chúa trị đến ở trong con cũng như ở trên trời. Con nói như vậy rồi thì Cha chụp lấy con còn mau mắn hơn là con chim chụp mồi, con biết không, cũng như thể là một ngọn lửa táp vậy. Con cứ để cho Cha như thể là vừa chạy vừa giật lấy con.
Con đừng có tránh né, con hãy nhào vào trong tay Cha rồi thì con như mất thăng bằng không còn tự điều khiển lấy con nữa. Cha ưa con đui, cứ để cho Cha dẫn con. Hai vai của Cha chưa có nặng bao nhiêu, nó còn có thể vác nhiều hơn nữa. Con chọn lấy một chỗ đi. Cha là Đấng chăn chiên lành, con kể tên mấy linh hồn con muốn dắt tới cho Cha … Vì con Cha cứ kêu riết mấy linh hồn đó, con đừng sợ dẫn tới cho Cha nhiều quá, Cha trông con dẫn tới nhiều hơn nữa, còn con, con mở lòng ra cho lớn đi, Cha vô đó rồi, Cha không đi đâu nữa, miễn là con đừng có nhàm chán cái người bạn đã chịu chết mà cứu con. Như con có đuổi Cha, thì Cha cũng còn ở nữa, ở ngoài cửa con.
ngày 19 tháng 4 năm 1944. Ơn Cha ban cho con bữa nay: Cha hiện diện trước mặt con. Từ nầy về sau con sống trong ý tứ nhớ luôn người bạn thiết tha nhất của con có ở đây. Như vậy ảnh hưởng của con mạnh thêm gấp mười: Một linh hồn cháy mồi với một linh hồn khác cũng như thể một cây đèn sáp này đốt mồi với cây đèn sáp kia.
Giờ Thánh. Tôi lo ra vì người sửa đờn làm um sùm: không chừng bị vậy mà Chúa không nói với tôi được. Có tiếng nói. Có cái gì, có ai mà ngăn trở được Cha nói với một linh hồn khi mà Cha muốn nói. Lời của Cha không phải lời nói thâm trầm của hai tâm hồn sao? Dầu mà ở giữa đám đông người, con cũng có nghe Cha nói với con rồi, con nghe một tiếng nói thầm nhỏ cho đến nỗi phải là tình yêu mới nghe được. Còn Cha, Cha thích để con bắt Cha … bắt trộm Cha đi! Con càng ăn cắp Cha chừng nào thì Cha càng có thêm của quý để cho con ăn cắp. Vậy chớ chúng ta không để của chung hết rồi sao?
Cũng như trong một gia đình âu yếm? Con hãy tin vững đi, sự giàu có của Cha không bao giờ sút giảm. Con hãy lấy đi, lấy cho đầy tay con đi, lấy cho đầy lòng con đi, lấy không phải cho con mà lại cho tất cả mọi người nữa, con đừng quên ai nghe, mà vậy rồi Cha càng giàu thêm hơn nữa … Cha nói với con rồi cái gì một chút cũng che khuất làm cho con không còn thấy Cha nữa … Con hãy tin đi, tin Cha hiện diện dầu con không thấy, Cha đầy lòng yêu thương, yêu thương rất mực, phải chi con biết … Ôi hiện diện! nội bao nhiêu đó cũng nhiều lắm rồi … Con cứ làm hết mọi sự: công việc, đọc kinh, nghĩ tưởng, trò chuyện. Như là Cha có ở đó, mà thực sự có Cha chứng kiến, con tưởng làm sao? Cái đó nó không phải là nhân lành tử tế vô cùng sao? ...Con thức dậy, có Cha ở đó. Con nghỉ ngơi có Cha ở đó. Con có thể nói được: không khi nào Cha bỏ con một mình. Vì lẽ đó mà nói được bao giờ con ở thanh vắng thì luôn luôn có Cha. Con nhớ không, lúc người tớ gái con chết, con lưỡng lự không biết phải mướn người khác giúp con nữa không? Cha đã khuyên thôi thì ở một mình đi. Cha nói: con có thương Cha tới mức đó hay không? có phải thật là con không tiếc cái gì với Cha hay không? Cùng với nhau chúng ta đã trải qua nhiều năm, nhiều buổi chiều tối vắng vẻ quạnh hiu. Con đã cố gắng khắn khít với Cha hơn, mà Cha cũng đã giúp con. Vì bởi con có thể kết hợp những lúc con hiu quạnh với những nỗi quạnh hiu của Cha
Con có biết rừng cát không? Cha đã ở đó 40 ngày. Con có biết những đêm Cha không ngủ, những đêm Cha thoát ra xa môn đệ để cầu nguyện với Cha của Cha. Con có nhớ những lúc Cha ở giữa đám đông mà Cha vẫn phải triệt để quạnh hiu, vì người ta không hiểu Cha, vì người ta chống đối thù nghịch Cha vì người ta hiềm khích giận ghét Cha, vì người ta không chịu không ưng chịu làm bằng hữu với Cha. Tất cả những sự ấy là vì chúng con, là vì con, rồi đến sau Cha chịu quanh hiu nơi vườn Giệtsimani Cha vẫn còn quạnh hiu trong các nhà thờ, vì tại Thánh Thể Cha đã lập, Cha chịu quạnh hiu trong các tâm hồn vừa chịu lễ xong đã bỏ quên Cha …
Ôi! chớ gì những bạn thân của Cha trung thành nồng nhiệt nghĩ tưởng đến Cha luôn mãi. Để an ủi Cha, rồi thì Cha, Cha sẽ an ủi chúng nó khi chúng nó yên giấc ngàn thu để mà trẩy đi qua cõi sống đời sau. Không phải là một chuyện lạ lùng sao? ... thọ sinh mà an ủi được Chúa Trời của mình! Song le có thật vậy, vì thương mà Cha đổi ngược ngôi thứ như thế để cho con được một phương thế mới. để cho con được lấy tình yêu tha thiết mà bênh vực Cha, vậy thì con thấy Cha cần thiết làm sao? các cách con thương mến Cha, các cách con ở tha thiết với Cha, nào ai hiểu được những nồng nàn lửa lòng Cha? Con hãy tha thứ cho Cha vì bữa nay Cha nói chuyện của Cha nhiều quá … Mà con hiểu cho Cha chớ, Trái Tim Cha cần được hả hơi một chút. Để cho người ta hiểu, để cho người ta biết rõ hơn một chút, người bạn thân này không được mấy ai hiểu biết. Thân thiện biết bao nhiêu! Gần gũi biết bao nhiêu với chúng con …Phải chi chúng con biết cái đó … Hỡi các con nhỏ cưng của Cha!
ngày 26 tháng 6 năm 1941. Ở ngoài đồng quê. Tôi thưa với Chúa: còn với Chúa cũng dạo mát với nhau trên con đường cây thông này của Chúa.
Chúa sửa lời tôi nói lại như vầy: trên con đường cây thông của chúng ta, nhưng không có con thì Cha đi làm gì trên con đường đó? Con biết cho Cha, Cha khát khao kết hiệp với con.
ngày 30 tháng 7 năm 1941. Chiều nay con có chuyện gì nói với Cha không? ... Người ta hỏi con, con đã lãnh công việc gì phải không?
Lạy Chúa con nhỏ nhít quá làm sao lãnh nổi việc gì?
Mấy đứa con gái nhỏ cũng lãnh được nhiều công việc sai vặt. Con hãy làm cho Cha thấy coi, thấy con cần phải nói chuyện với Cha, chớ đừng bỏ Cha một mình trong lòng con. Matta, Maria với Ladarô hồi đó ở trong đền đài của họ, họ cứ ở kế bên Cha lo lắng cho Cha. Vậy chớ con không tin Cha rước họ vào trong đền đài của Cha trên trời sao?
ngày 15 tháng 8 năm 1941. Sau một cuộc kiệu. Trong nhà thờ vắng hoe. Cha cũng như ông chủ nhà: lúc khách khứa ra về hết rồi, ngồi lại ngó quanh quẩn trong nhà, đó là lúc ngẩn ngơ. Không biết mấy người khách họ có trung tín với mình nữa không? có hiểu ý nghĩa cuộc lễ chưa, có biết ơn không hay là họ cười nhạo mình.
ngày 28 tháng 8 năm 1941. Lòng sốt sắng nhiệt thành hả? Không phải là bương bả làm cho nhiều đâu. Song là đem tất cả lòng đầy yêu mến và làm việc hiện tại, con ước cho Cha được kẻ thụ sinh của Cha làm lành cho Cha, con ước cho Cha hôm nay được nhiều linh hồn ra khỏi luyện tội. Con hiệp lòng con mừng vui với kẻ ấy vì được trông thấy Cha, và hiệp lòng con mừng vui với Cha vì kẻ ấy được hưởng phước. Con cứ đi lên … đi lên thiên đàng cho thường.
ngày 11 tháng 9 năm 1941. Con có để ý không chính nơi mà Cha đã hoàn thành ý muốn ta thích tha thiết nhất của Cha là Phép Thánh Thể. Chính nhà đó không phải của Cha. Người ta cho Cha mượn: Thầy cần đến. Cha cho đi tới cái áo Mẹ Cha đã dệt, Con hiểu được nỗi khó nghèo của Cha chưa?
ngày 28 tháng 6 năm 1940. Có tiếng nói: Sự gì con làm một cách vui tươi vì Cha thì làm cho Cha hài lòng hơn nữa. Suốt đời con, lúc sống cho đến khi chết con hãy cùng sống chết với Cha luôn.
ngày 12 tháng 4 năm 1945. Đi Paris trở về xe lửa đông người, Bà Bossis được một chỗ ngồi khỏe. Nghe Chúa nói: con thấy rõ Cha lo lắng nhiều cho con cái Cha. Dầu giữa đông người Cha cũng đem chúng ở chỗ thanh vắng để cho tim chúng lắng nghe bạn yêu mến chúng.
Cha đã chẳng nói với chúng ngày xưa rằng: khi Cha sai các con đi không tiền bạc, không gậy gộc mà các con có thiếu gì không? Chúng trả lời: Lạy Chúa chúng không hiểu gì hết.
Còn con, con cũng nói được như vậy.
ngày 7 tháng năm 1945. Ngày lễ cầu mùa. Nghe Chúa nói: Con hãy cầu xin cho ba đồng ruộng: là cánh đồng của linh hồn con. Cánh đồng của nước Pháp quê hương con và cánh đồng nhân loại được trúng mùa Thiêng Liêng.
ngày 12 tháng 7 năm 1945. cả ngày Bà Bossis bận tiếp khách nên làm giờ thánh trễ. Chúa nói: Bác ái lo cho kẻ khác là bác ái lo cho chính Cha. Con hãy nhớ rõ điều đó: nếu là ở nhà thờ con gặp Cha, thì cũng chính Cha con gặp lại trong người ta ngoài nhà thờ, luôn luôn ở đâu cũng gặp Cha hết.
Hỡi bạn Cha, con hãy có thói quen hiểu vậy, con hãy quên dễ dàng: là thấy Cha trong mọi biến cố đời sống con, và cũng thấy chính Cha trong giờ chết của con. Như vậy, sao con sợ hãi? (sợ chết) vì con biết là chính Cha sắp xếp. Con còn sợ Cha chăng? Và nếu con thấy Cha trong anh em con thì con sẽ tử tế vui vẻ với họ là thế nào.
ngày 31 tháng 7 năm 1945. Khi Bà Bossis lo nghĩ toan tính chuyện nọ chuyện kia. Nghe Chúa nói: Hãy lo cho Cha, đừng bao giờ lo nghĩ về con.
ngày 20 tháng 9 năm 1945. Đang ở trong nhà thờ Fresne, Bà Bossis lo lắng quá về những gì bà phải viết trong tập Nhật Ký, bà thấy sao khô cạn, trống rỗng không biết phải viết gì đây, nghe Chúa nói: Sao con lo lắng quá vậy? bởi vì chính Cha rao cho con viết mà, con hãy tin chắc tự con không viết được hàng chữ nào, con hãy công nhận Cha dùng con mà, Con hãy để tra điều khiển đời sống vắn vỏi của con và không phải luôn luôn mãi đâu, vì đây sẽ có ngày chấm dứt. Con hãy biết tiết kiệm dùng Cha trong: và như vậy sẽ làm cho con đẹp đẽ hơn và làm cho con được lợi ích hơn. Vì chính Cha nhờ con, dùng con để ban ơn cho kẻ khác.
Và tốt đẹp vui sướng vì Cha được gặp có nhiều xe chuyên chở Cha đem cho kẻ khác như dùng con vậy. Bà Bossis nói: Lạy Chúa xin cho con được như dụng cụ chuyên chở Cha đem cho kẻ khác mau mắn và trung thành. Nghe Chúa trả lời: Con hãy năng xét mình con đi. Con hãy coi con có thực thi vai tuồng mà Cha dùng con đem Cha cho hết mọi người không? Bà Bossis thưa lại: Lạy Chúa có, nhưng luôn luôn một cách không ra gì. Chúa Chúa đáp lại: Mà con không biết đâu. Con không biết khi con nói thì những gì xảy đến trong tâm hồn người nghe con nói đâu. Con có thấy rõ một linh hồn nào được, con có thấy ơn Cha hoạt động nhờ con trong linh hồn đây. Vậy con đừng hăng hái hoạt động cho Cha vì Cha.
Một ngày kia, con sẽ thấy kết quả. Con hãy nên như một đầy tớ trung trực hoạt động sốt sắng và thỉnh thoảng tâm tình tâm tình thầm kín với chủ mình đầy thương mến.
ngày 4 tháng 10 1945. Bà Bossis mới làm xong một công việc khó khăn và coi là đã làm sai và khởi sự lại. Nghe Chúa nói: chẳng phải khi bắt đầu làm việc con đã chẳng nói rằng: bất kỳ việc gì cũng quan trọng, bởi vì tất cả làm vì Cha sao? Con hãy chứng tỏ việc con nói là thật và con có thể làm đi làm lại vì yêu mến Cha.
ngày 6 tháng 10 năm 1945. Bà Bossis đã thêu lại cái khăn choàng làm phép lành. Bà nghĩ để khoe khoang, bà sẽ đưa cho các chị bạn của bà xem. Chúa nói: mắt Cha xem con không cho là đủ rồi sao? và Chúa cho bà biết Chúa vui mừng bởi tình thương thầm kín (cần gì khoe với chị em nữa)
ngày 2 tháng 1 năm 1946. Bà Bossis đi xem lễ về ghé mua bánh mì. Chúa nói: Con có thấy khác biệt hẳn, bánh nuôi xác với bánh hằng sống không.
ngày 26 tháng 1 năm 1946. Khi đọc kinh Lạy Cha, tôi cầu xin cho ý Cha thể hiện dưới đất … Chúa nói: Con hãy biết dưới đất đó là chính con, vì con bởi đất mà được dựng nên. Con hãy xin cho con làm theo Ý Chúa, theo ý Chúa Cha cũng như con ở trên trời rồi và chỉ sống bởi Chúa và vì Chúa mà thôi.
ngày 21 tháng 3 năm 1947. Trong giờ thánh Chúa nói: cả đêm Cha đã chờ đợi con trong Nhà Tạm để phó trót mình Cha cho con sáng sớm. Sao con lấy làm ngạc nhiên đến đó sao? con tin Cha hiện diện trong Nhà Tạm không? Con có tin Cha yêu mến vô cùng không? Vậy, chúng ta hãy sống chung bên nhau. Và khi ban đêm con thức giấc, con hãy ngó nhìn đến Đấng đã trông chờ con lúc rạng đông. Như vậy làm cho con yêu mến Cha và làm cho con tin cậy vào sức mạnh Cha.
Chớ gì đừng bỏ ngày nào mà con không lo lắng gì về Cha, cũng như không có ngày nào mà Cha không làm gì trong con để cho con được hạnh phúc. Con tin Cha chứ.
ngày 28 tháng 3 năm 1946. Chúa nói: Sao con lo lắng về dư luận quá vậy? Cha biết con không đủ sao. Nếu con ở với Cha, con hãy để họ nói gì mặc kệ. Con hãy ở trên vai Cha và hãy bỏ quên hết mọi sự.
ngày 4 tháng 4 năm 1946. Chúa nói: Con nói được rằng: không có gì là bởi con, mọi sự là bởi Chúa. Vì luôn luôn mọi sự xảy tới là do Cha, con hãy gọi lại sau lưng. Con không thấy mặt Cha trong biến cố này sao? Và biến cố không đưa con đến nơi con không ngờ sao? và chẳng phải là vừa sức con sao? Dù là nặng mà con cũng không chịu nổi. Con đừng lo sợ gì hết. Mà phải, dù chết đi nữa cũng đừng sợ; con sẽ được đủ để chịu chết, con sẽ vào sự chết như sự kiện Cha ban cho con với ơn Cha giúp đỡ. Con biết ơn giúp là ơn đúng lúc. Ơn Chúa là chính Cha đó. Khi con ở với Cha, con có sợ không? Xưa Cha đã chẳng nói với các Tông Đồ sau khi sống lại rằng: Các con đừng sợ. Hỡi con gái cưng Cha, con sợ làm Cha buồn lắm.
ngày 12 tháng 4 năm 1946. Chúa nói: con biết bằng chứng yêu mến Cha là con chăm lo cho anh em con cách yêu thương. Con hãy tin Cha ở trong người ta, hãy tin con làm Cha vui lòng khi con làm vui lòng người ta. Như vậy con sẽ là khiêm tốn với người ta, luôn luôn con hãy nên khiêm tốn nhỏ nhoi, con hãy nghĩ đến hình thức nhỏ bé của Mình Thánh Chúa.
ngày 24 tháng 4 năm 1946. Bà Bossis nói: Lạy Chúa xin Chúa sửa dậy con, con chỉ kiêu căng từ sớm tới tối. Chúa trả lời: Mỗi ngày con hãy nói lời đó cho Cha và ở khiêm nhường hạ mình. Mỗi ngày con hãy sống hành động bởi Cha, thấy Chúa Giêsu trong hình bánh, thấy Chúa Giêsu dưới mọi hoàn cảnh mọi gặp gỡ, dưới mọi sự kiện. Con hãy nhìn thấy Cha mọi nơi. Con hãy theo Cha khắp nơi.
ngày 16 tháng năm 1946. Chúa nói: Trong giờ Thánh, con hãy cho Cha mượn các cử động của con để yêu mến Cha. Và hãy cho cho mượn sự dễ thương con để Cha an ủi chủ chăn trong gánh nặng Ngài. Và như vậy, nhờ con mà Cha ngự ở giữa các người của con. và con sẽ gây thêm ảnh hưởng với họ và chính con cảm thấy con bớt nhỏ lần, con sẽ nghĩ rằng: đây không phải là kết quả của công khó con, song là Chúa Giêsu hiện diện đó với con. Con hãy cho cho mượn thân xác con khi con đi đàng, khi con chịu khó, khi con ăn uống, khi con ngủ nghỉ. Vì xưa Cha cũng đã làm như vậy khi Cha sống giữa họ và để cho họ nhận thấy Cha như vậy.
Ngày 23 tháng 6 năm 1946. Đang khi Bà Bossisi đứng ở cửa sổ nhìn kiệu đi qua, bà đứng im bị một con muỗi chích ở chân, khi Mình Thánh Chúa đi tới, Chúa nói con hãy dừng tất cả muỗi cắn để làm vinh danh tình yêu Cha. Ở đời không có chi khác là đáng kể hết.
ngày 4 tháng 7 năm 1946. Bà Bossis cảm ơn Chúa vì Chúa đã đi đến nhà bà đem Mình Thánh Chúa vì bà đau chân không đi tới nhà thờ được. Chúa nói: Con chỉ kêu Cha thì Cha đến liền.
ngày 1 tháng 8 năm 1946. Chúa nói: Con đừng làm việc gì mà chẳng có Cha làm với. Con đừng quên ý ngay lành. Chỉ có Cha, một mình Cha con phải phụng sự, con phải yêu mến, con phải an ủi một mình Cha trực tiếp hay là gián tiếp trong anh em con.
Chỉ có một mình Cha là Đấng Tạo Hóa, là Đấng yêu thương con.
ngày 15 tháng 8 năm 1946. Bà Bossis đi trên cầu bà sợ té bà nói: xin Chúa. lòng con yêu mến xin Chúa đến với con. Chúa trả lời: Con không thấy Cha mà thật vậy. Nhưng Cha vẫn ở với con luôn luôn kêu chi nữa.
ngày 17 tháng 8 năm 1946. Bà Bossis thấy trên bàn thờ có hai bình bông quý của bà, di tích của gia đình bà. Chúa nói: thì hai bình bông đó cũng còn là của con ở nhà của Cha.
Phục Sinh năm 1947. Chúa nói: Xưa hai môn đệ thành Emmau, vội vàng nói với Cha rằng: Xin Cha ở lại với chúng con. Bây giờ chính Cha nói với con giọng Cha nói rằng: Hởi con bé cưng Cha, con hãy ở lại với Cha, con hãy ở lại với Cha vì trời đã tối.
ngày 11 tháng ngày 13 tháng 11 năm 1946. Chúa nói: Con hãy năng nói với Cha rằng: con sắp làm việc này cách trọn hết sức để làm đẹp lòng Cha.
ngày 11 tháng 11 năm 1946. Bà Bossis đang nhổ cỏ trong vườn. Chúa nói: mà phải, thay vì con tưởng chính con phụng sự, con hãy nghĩ là chính Cha, và vì Cha các việc con làm cả ngày: là những bữa ăn uống, đi dạo nghỉ, vườn tược, phòng the và các việc may vá của con, như vậy phải thân mật và dịu ngọt hơn chăng?
ngày 20 tháng 2 năm 1947. Chúa nói: Trong giờ Thánh, không linh hồn nào giống nhau không ai cho Cha được sự Cha trông đợi nơi con. Như con hãy năng suy đến cớ sự tại sao con được dựng nên trong ý muốn của Chúa Cha. Bản tính loài người mau sa ngã. Và nếu con tin, thì không có ai sẽ làm thay thế con được, vì ai ấy cũng có sứ mạng riêng của họ phải làm.
ngày 6 tháng 3 năm 1947. Bà Bossis nghe điện thoại và những cú điện thoại nói đủ thứ chuyện. Chúa nói: Đó đời sống là vậy, có những việc bất ngờ, có những sự di chuyển. Đủ thứ thay đổi bất ngờ, con hãy vững tâm nơi Tim Cha, con hãy nhìn vào Cha hoặc để xin Cha chỉ dẫn hoặc để nói với Cha rằng: con yêu mến luôn. Con hãy nhớ rằng không có gì xẩy đến mà không bởi Cha cho phép và con hãy luôn luôn yên trí.
ngày 8 tháng 4 năm 1947. Bà Bossis đi làm việc ngoài vườn về bà nói với Chúa rằng: Chúa vui chứ vì con làm việc. Chúa trả lời: không phải vì con đã làm việc mà Cha bằng lòng đâu. Mà chính vì con tưởng nhớ đến Cha ở với con khắp nơi, đáng kể không phải là việc con làm: nhưng chính là việc con yêu mến Cha.
ngày 21 tháng 7 6 năm 1947. Chúa nói: nếu con dâng cho Cha các sự vui của con, các sự nghỉ ngơi của con thì Cha sẽ ít gửi khốn khó thử thách cho con. Bởi vì chính là sự kết hợp với con mà Cha tìm kiếm và thương con, chỉ chạy đến Cha khi con phải khổ mà thôi vì đó Cha phải để con khổ để kéo con chạy đến với Cha. Vậy con hãy chạy đến với Cha trong mọi lúc.
ngày 15 tháng 3 năm 1948. Bà Bossis nói: đi dự lễ về trời lạnh, bà đi chân không, bà nhớ cầu cho người tội lỗi, bà nói: Lạy Chúa con lẽ Chúa sẽ cho hai người trở lại vì 2 chân lạnh cóng của con. Chúa trả lời: Có hay sao? Hai ngàn người trở lại chớ. Và Chúa nhắc bà nhớ Chúa đã cho sáu ngàn người trở lại chỉ vì nhờ một lời cầu nguyện của thánh Têrêsa Avila.
ngày 3 tháng 6 năm 1948. Chiều tối chim Quyên nghỉ hát. Chúa nói: Con chim đã hát xong còn con, con phải ca hát mãi mãi đời đời …
ngày 10-7-1948. Trong giờ Thánh, Chúa nói: Mỗi ngày con hãy đọc ít câu trong nhật ký của con, nhờ đó con sẽ được nghị lực và yêu mến. Cha có đòi hỏi con nhiều quá đâu. Đọc một lần sớm mai và hai lần trong ngày. Để Cha con mình chung sống con hiểu chưa? Để tìm gặp Cha trong dưới những hàng chữ nhật ký con.
ngày 1 tháng 7 năm 1948. Tại Nantes, trong giờ Thánh. Chúa nói: Con hãy yêu mến Cha, con thấy không? Cha xin sự đó với nhiều người, với mọi người, ít người dừng lại để nghe Cha, có ít người người Cha mà không muốn hiểu Cha. Con có biết ai là kẻ thù Cha không: chính là tiền bạc. Vì thì người ta chỉ nghĩ đến tiền bạc. Và tiền bạc làm cho lòng họ chai đá mà không thoả mãn được. Chỉ có Cha, con hiểu chứ, chỉ có Cha ban cho sự vui mừng.
Người ta tưởng Cha bắt họ phải khổ và hi sinh, nhưng chính những hy sinh đó làm cho người ta được nhẹ nhàng.
Xem tiếp: CH1, CH2, CH3, CH4, CH5, CH6, CH7, CH8, CH9, CH10, CH11, CH12, CH13
|