Lời
cầu nguyện đích thực
Một vị linh sư
nọ đang cầu nguyện. Các
môn đệ đến xin ông dạy họ cách cầu nguyện.
Vị linh sư liền dạy các môn đệ cầu nguyện
bằng một câu chuyện như sau:
Cả hai người dẫn nhau đi
qua một cách đồng, bỗng một con bò mộng
giận dữ không hiểu từ đâu chạy tới. Hai người
bèn chạy đến hàng rào gần nhất để ẩn núp;
những đã quá trễ, họ không thể lẩn
trốn được con bò mộng hung dữ kia
đang chạy tới để hút vào người họ. Trong cơn
hốt hoảng, không còn biết làm gì được
nữa, một trong hai người đề nghị: chỉ
còn có sự cầu nguyện may ra giúp chúng ta thoát
được. Thế nhưng người kia lắc
đầu tuyệt vọng:
-
Cả đời tôi, có bao
giờ tôi cầu nguyện đâu!
Người bạn quả quyết:
-
Anh hãy đọc
bất cứ kinh nào anh nhớ.
Một chút hy vọng bỗng lóe
lên, anh ta nói:
-
Vậy thì tôi sẽ
đọc lời kinh duy nhất mà tôi còn nhớ, đó là
lời cầu nguyện cha tôi thường đọc trước
bữa ăn như sau:“Lạy Cha, xin cho chúng con
luôn biết tạ ơn Chúa, vì tất cả những
gì chúng con đã nhận được”.
Anh
chị em thân mến,
Cầu
nguyện là sinh hoạt căn bản và là nhu cầu cấp
thiết của lòng tin. Cầu nguyện
còn là biểu hiện của một lòng tin
sống động. Người Kitô hữu nào
cũng phải cầu nguyện. Nhưng lời cầu
nguyện của chúng ta chỉ có ý nghĩa thực khi
nó diễn tả mối tương quan giữa con người
với Thiên Chúa. Và đó là lời cầu nguyện đẹp nhất
mà Thiên Chúa mong đợi nơi những kẻ tin Ngài.
Chúng ta thường cầu
nguyện như thế nào?
Hôm nay
chúng ta hãy nghe lời cầu nguyện của người
Pharisêu và của người thu thuế trong
dụ ngôn Chúa Giêsu đã kể cho chúng ta. Qua
lời cầu nguyện của hai người nầy, chúng ta thấy
được phần nào nội tâm của từng người.
Lời
nguyện của người Pharisêu trước hết là một
lời tạ ơn, tiếp theo là bản
liệt kê những thói hư tật xấu mà ông không hề
phạm, cuối cùng là những việc đạo đức ông
quen làm. Đây là một lời cầu nguyện
hết sức thành thực, người Pharisêu chỉ nói lên
những điều ông đã sống. Chẳng những
ông đã làm các việc đạo đức do luật buộc
như ăn chay mỗi năm vào dịp lễ Xá tội, nộp
một phần mười lợi tức cho đền thờ, mà
ông còn tự nguyện làm những việc đó ở
mức độ cao hơn, như ăn chay một tuần hai lần,
nộp cho đền thờ một phần mười lợi
tức chẳng những về gia súc, ngũ cốc,
rượu và dầu mà còn cả về rau, đậu và
thảo mộc nữa. Chúng ta không thấy ông xin gì cho
bản thân, nhưng chỉ là “tạ ơn”. Điều đáng tiếc là
lời tạ ơn của ông đầy nét tự hào, tự
mãn và khinh bỉ tha nhân: “Tạ ơn Chúa vì con không
như bao người khác…”, “con không như tên thu
thuế kia”. Chính vì thế chúng ta có
thể nghi ngờ về tâm tình “tạ ơn” của
người Pharisêu nầy. Tạ ơn thực
sự bao giờ cũng gắn liền với thái độ
khiêm tốn thẳm sâu.
Còn
người thu thuế đến đền
thờ để thú tội. Anh ý thức mình là
một tội nhân, bị kể ngang hàng với bọn
đĩ điếm (x. Mt 21,31-32). Có lẽ anh
đã nghe thấy lời cầu nguyện lớn
tiếng của người Pharisêu “con không như tên thu thuế kia”, nên anh thấy khỏi cần
thú tội mình. Anh chỉ đặt mình trước
Thiên Chúa một cách trung thực và khẩn khoản nài xin:
“Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Điều anh khao khát là được Thiên Chúa tha thứ và
được làm hòa với anh em, nhưng anh chỉ dám đứng
xa vì thấy mình hoàn toàn bất xứng.
Thưa anh
chị em,
Qua
lời cầu nguyện của hai người trên đây, chúng ta
thấy: Người Pharisêu ra gặp Thiên Chúa và ông cảm
thấy mình có thế giá hơn nhiều người khác. Ông đã sống một đời sống đạo
đức, nhiệm nhặt. Ông ra gặp
Chúa với một kho những công trạng to lớn
của riêng ông. Nhưng than ôi, cái kho đó
lớn quá đến độ nó ngăn cách ông với Chúa, nó không cho
ông thấy được Ngài nữa mà chỉ còn thấy
chính mình. Có nhiều chữ “tôi”
trong lời cầu nguyện của ông. Tôi tôi thế
nầy, tôi thế nọ, tôi không như người nầy, không
như người khác… Rốt cuộc ông Pharisêu lại là
người quay vào mình, ông ngắm chính mình, dù chúng ta
tưởng ông đã mở ra khi nói: “Lạy Chúa, con tạ ơn
Chúa”. Tạ ơn là quay về với Thiên Chúa, nhìn
nhận Ngài là nguồn mạch, là trung tâm, là sức
sống của cả đời mình, của những
việc tốt mình làm được. Ông Pharisêu
đã không tạ ơn thực tâm vì ông quay vào mình,
coi mình là trung tâm, là tác giả mọi điều tốt
đẹp ông đã làm. Như thế Thiên Chúa là một
người thừa, hay cùng lắm chỉ là một người
mà ông đến gặp để kể công và đòi nợ. Thiên Chúa phải trả cho ông Nước Trời
vì ông đã có công. Người Pharisêu
không xin Thiên Chúa cũng chẳng thể cho điều gì,
vì ông đã đầy ắp. Vì
tự mãn, nên ông mất đi một khả năng quan
trọng, đó là mở ra để đón nhận Thiên Chúa vào đời
mình.
Nếu
người Pharisêu là một ông nhà giàu, chẳng có gì
phải xin Thiên Chúa, thì ngược lại, anh thu
thuế, tuy là là người có lắm tiền nhiều
của, nhưng thực ra anh là người nghèo trước mặt
Thiên Chúa. Anh chẳng có công trạng gì
để cậy dựa. Anh ý thức
về sự nhơ nhớp của mình và thấy gần
như không thể làm lại cuộc đời. Nếu hoán
cải, anh phải bỏ nghề, và nhất là phải
bồi thường toàn bộ những gì anh đã thu quá mức, cộng thêm một phần năm
số tiền trên. Tình cảnh của
anh thật là tuyệt vọng. Anh
chỉ còn biết cậy dựa vào lòng thương xót
của Thiên Chúa.
Như thế, thật là oái oăm, chính sự đạo đức
của người Pharisêu đã trở thành một chướng
ngại khiến ông ta không gặp được Thiên Chúa, không
lãnh nhận được ơn của Ngài. Còn sự tội
lỗi của người thu thuế
lại đưa anh đến chỗ mở lòng ra để đón
nhận Thiên Chúa, Đấng yêu thương tha thứ. Chúa Giêsu
đã long trọng tuyên bố: “Tôi nói cho các ông biết:người nầy, khi trở về nhà,
thì đã được nên công chính; còn người kia
thì không”.
Như
thế, thưa anh chị em, những ai tự cho mình là
công chính thì không được Thiên Chúa nhìn nhận,
còn kẻ tội lỗi biết cậy trông, lại
được Thiên Chúa làm cho nên công chính. Chúng ta không
thể tự tạo cho mình sự công chính thánh
thiện nhờ làm những việc lành phúc đức.
Trở nên công chính là một ơn Chúa ban cách nhưng không, nhờ
lòng tin và lòng mến của ta đối với Chúa
Giêsu Kitô. Chắc chắn chúng ta phải làm
nhiều việc lành phúc đức, nhưng đừng tưởng
mình có thể mua được Nước Trời bằng
những công phúc của mình. Chúng ta
được cứu độ nhờ công trạng của Đức
Kitô. Dù sống đạo đức hay trót mang thân phận
tội lỗi, chúng ta phải tránh thái độ khép kín
trước Thiên Chúa và tha nhân. Đừng vì
mình đạo đức mà khép kín trong tự kiêu, cũng
đừng vì mình tội lỗi mà khép kín trong tự
mãn, cũng đừng bì mình tội mà khép kín
trong tuyệt vọng. Ơn Chúa chỉ
đến với người biết mở ra để đón nhận.
Anh
chị em thân mến,
Hình
ảnh của hai nhân vật trong dụ ngôn hôm nay đã
giúp chúng ta khám phá lại hai sự thật căn bản:
sự thật về Thiên Chúa tình thương và sự
thật về con người tội lỗi. Vì thế
lời cầu nguyện của người thu
thuế về con người tội lỗi. Vì thế
lời cầu nguyện của người thu
thuế lại chính là mẫu mực cho đời sống
đức tin của chúng ta: “Lạy Chúa, xin thương xót con là
kẻ tội lỗi”. Nếu dụ ngôn giúp chúng ta khám phá
hai sự thật căn bản đó thì để kết thúc,
không có gì tốt hơn là lặp lại thật sâu và
thật trọn vẹn lời cầu nguyện của
Thánh Âutinh: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con
biết con”.
|