Tất cả là hồng ân
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Đầu tháng
10 năm 1962, chiếc phi cơ hàng không PanAm (Mỹ),
chở mấy trăm Giám mục người Mỹ đi
họp Công Đồng chung Vatican II. Trong hai cô tiếp viên
hàng không phục vụ hành khách, có một cô kiều
diễm tuyệt vời. Đức Cha Fulton Sheen, Tổng
Giám Mục giáo phận New York đồng thời là một
nhà văn và một nhà hùng biện nổi tiếng
Nước Mỹ, đã lưu ý đến sắc
đẹp của cô tiếp viên nầy.
Thế rồi,
khi phi cơ hạ cánh, hai cô đứng bên cửa xuống
cầu thang chào từ biệt và hành khách đáp lại hai
tiếng cám ơn. Nhưng đến lượt Đức
Cha Fulton Sheen, người ta thấy ngài đưa miệng
ghé vào tai cô tiếp viên xinh đẹp kia mà nói nhỏ
một câu gì không ai nghe được.
Bốn tháng sau,
khi khóa I Công Đồng chung Vatican II kết thúc, các Giám
Mục được về nước nghỉ. Một
hôm, cô chiêu đãi viên xinh đẹp nọ tìm đến gặp
Đức Cha Fulton Sheen: “Thưa Đức Cha, Đức
Cha còn nhớ con là ai không?” – “Tôi còn nhớ lắm,
Đức Cha còn đáp. Cô là tiếp viên trên chiếc hàng
không đưa chúng tôi đến Rôma”. – “Nhưng
Đức Cha còn nhớ Đức Cha đã nói gì với
con không?” – “Tôi đã nói: có khi nào cô đã tạ ơn Chúa vì
Ngài đã ban cho cô sắc đẹp tuyệt vời không?”
– “Thưa Đức Cha, chính vì câu hỏi đó mà hôm nay con
đến hầu chuyện Đức Cha, chính vì câu
hỏi đó mà Cha nghĩ con phải làm gì để tạ
ơn Chúa?”. Trước câu hỏi đột ngột,
Đức Cha Fulton Sheen lúng túng không biết trả lời
làm sao. Ngài trấn tỉnh, chấp tay lên ngực, rồi
ngước mắt lên trời như thể xin ơn soi
sáng. Trong chốc lát, ngài nói: “Cha vừa mới
được một tin từ Việt Nam: đó là
Đức Cha Jean Cassaigne, một người Pháp đang là
Giám Mục giáo phận Sài Gòn, đã xin từ chức
để đi phục vụ một trại phong cùi
ở miền núi Di Linh – Lâm Đồng. Nhưng
người phong cùi ở đó khốn khổ lắm con
ạ! Họ đang chờ cái chết đến với
họ. Vậy theo ý cha, cách tạ ơn Chúa đẹp lòng
Ngài hơn cả và có ý nghĩa hơn cả là con hãy hy sinh
một thời gian, đem nụ cười xinh
tươi, đem tiếng nói dịu dàng, đem duyên
sắc mặn mà của con để an ủi họ”. Mặt cô tiếp viên tái
dần đi. Cô đứng lặng yên trong mấy phút.
Đột nhiên cô cúi đầu tạm biệt không nói
một lời. Rồi từ đó không biết hai
người còn gặp nhau hay thư từ liên hệ gì
nữa chăng. Nhưng đầu năm 1963, đài phát
thanh cũng như báo chí ở Sài Gòn loan tin: “Một nữ
tiếp viên rất xinh đẹp của hãng hàng không Panam
tình nguyện đến Di Linh – Lâm Đồng để
sống với những người phong cùi trong sáu tháng”.
Thưa anh chị em,
Cái nhìn đức tin thúc đẩy chúng ta
tạ ơn Chúa là như thế đó. Nhận
được ơn thì phải biết chia sẻ cho
người khác, để nói với Thiên Chúa và anh em mình
rằng: “Tất cả đều là hồng ân”. Biết
bao ơn lành lớn nhỏ Chúa tuôn đổ xuống trên
cuộc đời chúng ta. Có bao giờ chúng ta nhận ra
những hồng ân ấy để dâng lên những lời
cảm tạ mỗi ngày không? Những điều chúng ta
đang có tưởng rằng tầm thường,
nhưng thật ra lại rất phi thường.
Đừng đợi khi mắt mù, tai điếc, cụt
tay, què chân chúng ta mới nhận ra có thân thể lành lặn
là quý giá vô cùng. Nếu chúng ta biết cám ơn những gì
mình đang có, chúng ta sẽ biết cám ơn suốt
đời vì tất cả những gì Ngài đã ban cho.
Chúa Giêsu đã hỏi: “Không phải cả
mười người được khỏi phong cùi sao?
Thế thì chín người kia đâu, sao không trở lại
tạ ơn Chúa, mà chỉ có một người ngoại
giáo nầy thôi?” Đối với người Do Thái,
người bị phong cùi được coi như bị
Thiên Chúa chúc dữ và còn bị luật coi là người
mắc ô uế nhơ bẩn, bị xã hội khai trừ,
phải sống biệt lập trong bãi tha ma, đi đâu
thì phải lắc chuông lên tiếng báo động cho
người ta xa tránh.
Nhưng Chúa Giêsu không xa tránh họ. Họ
đã đến với Chúa như Chúa đến với
họ. Vì Ngài là tình thương cứu chữa. Chỉ có
tình thương mới tìm đến với những con
người bị bỏ rơi, bị loại trừ.
Trên đất nước chúng ta có hàng chục trại
phong cùi. Một số trại do các tu sĩ, nữ tu
đảm nhận điều hành, chăm sóc các bệnh
nhân. Nếu ở Việt Nam tên tuổi của Đức
Cha Jean Cassaigne gắn liền với trại phong cùi Di Linh
thì danh tiếng của Đức Cha Đamien còn vang
vọng giữa hải đảo Milokai – Thái Bình
Dương, người mà nhà ái quốc Gandhi đã ca
ngợi và nói: “Nên tìm hiểu đâu là nguyên do phát sinh
một cuộc sống anh hùng như vậy”. Nguyên do
của cuộc đời hy sinh ấy là tình yêu mến Chúa
như Chúa đã yêu thương chúng ta cho đến
tận cùng.
Vậy khi chúng ta được Chúa ban
ơn, được mọi ơn lành hồn xác thì
đừng quên cám ơn Chúa và đừng kiêu hãnh khinh
miệt kẻ khác. Thánh Inhaxiô nói: “Tội lớn lao hơn
cả là tội vô ơn”. Trong nhóm 10 người phong cùi
được Chúa chữa lành, chỉ có một
người đã trở lại cám ơn Chúa và
người đó lại là người ngoại giáo.
Nhiều khi chúng ta được ơn Chúa, nhưng không
biết cám ơn Chúa. Khi hoạn nạn thì khấn vái
bốn phương, khi được như ý thì quên
lời đã nguyện hứa. Tệ hơn nữa, còn
tự kiêu tự phụ khinh miệt những người
xấu số, bệnh tật, nghèo khó, phong cùi.
Cám ơn là dấu chỉ của lòng tin. Chúa
nói với người phong cùi biết ơn đang sụp
lạy dưới chân Ngài: “Anh hãy đứng dậy mà
về, vì lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Chính
lòng tin đã thúc giục người Samari phong cùi trở
lại tạ ơn Chúa trước hết, đang khi chín
người Do Thái kia lo đi trình diện các tư tế
để được xác nhận và được hội
nhập vào cộng đoàn. Trong bài đọc I hôm nay, quan
Naaman sau khi dược lành sạch phong cùi, cũng vì lòng tin
đã tìm đến Ngôn sứ Êlizê và tuyên xưng lòng tin vào
Thiên Chúa: “Thật tôi biết, không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn
vụ ngoài một Thiên Chúa của Israel”.
Anh chị em thân mến,
Tạ ơn Chúa là dấu chỉ của
niềm tin. Tạ ơn Chúa không chỉ là chuyện lễ
nghĩa, nhưng là nét đặc trưng của những
tâm tình mà con người phải có trước các ơn
thiêng đã lãnh nhận từ Thiên Chúa. Việc bẻ bánh
ngày xưa cũng như Thánh lễ ngày nay là gì? Phải chăng
là tâm tình tạ ơn mà người Kitô hữu khiêm tốn
và hân hoan dâng lên Thiên Chúa là Cha vì hồng ân Ngài đã ban cho
chúng ta trong Đức Giêsu? Phải chăng là phương
thế tuyệt hảo để chúng ta nhận thức
lại sự phong phú đích thực của mình và tìm
lại bình an của niềm tin giữa những lắng lo
cuộc sống?
Cũng chính trong tâm tình tạ ơn đó,
chúng ta họp nhau chung quanh Bàn Tiệc Thánh nầy
để cử hành Thánh Thể – Bí Tích Tạ Ơn.
Ước chi lễ tế tạ ơn nầy đem
lại cho chúng ta bình an và niềm vui sướng vô hạn.
Bình an và niềm vui của một đức tin đã
gặp được Đấng Cứu Độ.
|