Đón, gặp và biết ơn
Chuyện đời thường, muốn
thăng quan tiến chức, chúng ta nghĩ đến
việc “biết điều” nơi phong bì cửa sau. Tệ nạn này không khó bắt
gặp trong xã hội. Khi
mọi sự đã “mã đáo thành công” thì “cò” cũng
được đền ơn cân xứng. Phủi tay, xem như ân oán sòng
phẳng, mọi chuyện chẳng có gì xảy ra. Trớ trêu thay, nhiều Kitô
hữu lại áp dụng lối suy nghĩ này với ơn
lành của Thiên Chúa. Khi gặp
cảnh gian nan bĩ cực, họ qui định cho Thiên
Chúa thời gian và hành vi cụ thể, đòi buộc Thiên
Chúa phải làm thế này, thế kia trong lúc này, lúc nọ.
Ngược lại, họ luôn hứa sẽ “trả công”
Thiên Chúa cách cân xứng bằng cặp đèn cầy,
mấy chiếc ghế đá, vài bao xi-măng… Ở
đây, tôi không vội lên án hay dè bỉu thái độ
này. Chúng ta cùng suy niệm Tin
Mừng Luca chương 17 được đọc trong
Chúa nhật 28 Thường Niên C để cùng rút ra
những bài học quí giá trong cung cách xin ơn và biết
ơn Chúa.
Đức Giêsu đang lên Giêrusalem. Theo Tin
Mừng Luca, “lên Giêrusalem” nghĩa là đi vào con
đường cứu độ, con đường
của khổ giá. Theo thói
thường, khi lâm nạn, chúng ta không mảy may
để ý đến người khác, thân mình lo chưa
xong thì làm sao mà lo chuyện bao đồng? Gặp một người trong
tình trạng “lá lành đùm lá rách”, chúng ta dễ dàng bĩu
môi: “Khôn nhà, dại chợ. Ăn cơm nhà, vác tù và hàng
tổng. Việc nhà thì nhác,
việc chú bác thì siêng”.
Phải chăng, Tin Mừng hôm nay giới thiệu
một gương mặt của Chúa Giêsu “lắm
chuyện”? Khác với thói
đời, mặc dù đang bước trên hành trình
thương khó, Đức Giêsu không ích kỷ. Ngài nán lại chữa lành
mười người phong hủi. Không phải Ngài nhiều
chuyện, Tin Mừng chỉ rõ: họ đón chờ Ngài và
van xin (x.Lc 17,12-13). Đúng
người, đúng việc, Đức Giêsu không
để nỗi lo lắng, bi thương mình đang mang
chi phối lòng xót thương.
Ngài vẫn giữ được sự tỉnh táo,
sáng suốt, giàu tình thương và đã chữa lành. Không phải vô tình mà Thánh sử
Luca nhiều lần nhắc đến động thái “lên
Giêrusalem”. Lên Giêrusalem nghĩa
là qui chiếu về mối dây cứu độ, mối
dây hiệp thông. Khi phạm
tội nguyên tổ, loài người cắt đứt
mối liên hệ với Thiên Chúa, với tha nhân, với
muôn vật muôn loài. Giờ
đây, Tin Mừng cứu độ mà Chúa Giêsu mang
đến qua lòng xót thương, đỉnh điểm
là biến cố Vượt Qua ở Giêrusalem nối
kết từng chi tiết một: con người lại
được chia sẻ vinh quang với Thiên Chúa. Trong trường hợp gặp
gỡ mười người phong: sự đổ vỡ
trong tương quan giữa người Do Thái và Samari,
sự khinh miệt của người lành với
người bệnh phong, đặc biệt như nguyên
tổ là sự trốn tránh của người tội
lỗi với Thiên Chúa, mọi vết nứt, đứt
gãy được trám lại thật khít cách hoàn hảo qua
biến cố chữa lành của Đức Giêsu. Đức Giêsu là Thiên Chúa, sẵn
sàng đối thoại với người tội lỗi
và dùng quyền năng chữa trị cả tinh thần,
thể xác và linh hồn những người phong hủi. Ngài cũng là người Do Thái
tiếp xúc với người Samari, hành động này
vượt qua mọi rào cản ngăn trở giữa hai
dân tộc tồn tại cả ngàn năm lịch
sử. Ngài không mắc
bệnh phong, qua việc tiếp xúc với bệnh nhân phong
đã đập tan thành kiến ô uế tệ hại. Chỉ một lần gặp
gỡ, mọi mối hiệp thông lại gắn
kết. Còn chần chờ gì
nữa, Kitô hữu cũng phải vượt qua hàng rào
thành kiến để mở rộng vòng tay bác ái của
Thiên Chúa.
Cả mười người cùng
đợi chờ, đón đường và van xin
Đức Giêsu. Khi rơi vào
cùng một nhịp đập của sự khinh chê, cách ly,
tất cả họ như thể trở nên gắn
kết thành một. Sức
mạnh của thành kiến xã hội đã đẩy
tất cả họ vào con đường cùng, nhưng
cũng chính sức mạnh ấy làm cho họ nhận ra
tính thống nhất của sự đoàn kết của xã
hội người phong.
Điều này giúp chúng ta học được bài
học của sự liên kết.
Quả thực, dù đau khổ, bi ai cách mấy,
nếu chúng ta cùng hợp sức như nhóm người này
để đợi chờ, đón đường và van
xin, thể nào Thiên Chúa cũng dùng ngón tay Người mà
chạm đến chúng ta.
Điểm khởi đầu này chẳng hề phân
biệt giai cấp, tầng lớp, thể chế xã
hội hay tôn giáo. Chắc
chắn, mười bệnh nhân cùng mong chờ một
điềm lạ vĩ đại nơi những lời
lẽ vĩ đại xuất phát từ một
người vĩ đại: “Thầy Giêsu” (17,13). Phải thực sự gọi là
trớt quớt: Đức Giêsu xuất hiện không hào
quang, không mây, không chớp, lời lẽ chữa lành không
dài dòng, văn hoa, màu mè.
Chỉ một lời, một lời thôi: trình
diện tư tế. Nản
lòng lắm chứ! Theo Torah
(Lề Luật Do Thái) chỉ khi nào lành sạch hoàn toàn,
nghĩa là không còn chút nào bệnh tật, khi đó bản
thân bệnh nhân mới được trình diện tư
tế về hiện trạng lành mạnh của mình. Sau đó tế lễ lên Thiên Chúa
như một bằng chứng thanh sạch và tỏ lòng
biết ơn. Đằng này,
thân mười như một: lở loét, ô uế, mà
Đức Giêsu lại bảo họ trình diện tư
tế. Lố bịch! Thiết nghĩ, Đức Giêsu
đang dồn những người này vào con
đường chết, vào thế bí, thế hiểm. Ai ngờ, đây lại là
đường hy vọng, đường thoát hiểm,
con đường sống.
“Chơi với Chúa” đòi hỏi phải chấp
nhận đánh-cuộc cuộc-đời mình. Ngày nay, Chúa không dùng việc
hiện ra như một hành vi thường xuyên mách bảo
phải làm thế này, thế kia.
Những gì cần nói, Ngài đã mạc khải
tất cả nơi Thánh Kinh.
Khi trình diện tư tế, mười bệnh nhân
đã thể hiện niềm tin mãnh liệt vào Lời
Chúa. Nếu chúng ta cũng
học hỏi, cũng tin vào Lời Chúa, Thánh Kinh và thực
hành niềm tin ấy thì chính chúng ta cũng cảm nếm
được sự bình an đích thực như thể
một phép lạ của Thiên Chúa. “Hãy nếm thử và
nghiệm xem” (Tv 33).
Suy niệm đoạn Lời Chúa này không
thể bỏ qua chi tiết một phần
mười. Thánh sử Luca
viết rất rõ: “đang khi đi thì họ được
sạch” (17,14b). Phải chú ý
rằng: họ được lành trước khi gặp
tư tế. Có hai điểm
cần quan tâm: thứ nhất không phải vì trình diện
mà tư tế chữa lành họ; thứ hai họ vừa
sạch phong hủi, lúc ấy vẫn chưa gặp tư
tế, nghĩa là theo Luật tình trạng của họ
mới sạch chứ chưa lành lặn hoàn toàn. Chín người kia phải
thực hiện từng con chữ được ghi chép
trong Luật. Cả chín
người như mong mỏi gặp cho kỳ
được tư tế để nhận
được xác quyết của tư tế là họ
lành sạch trăm phần trăm thì mới nghĩ
đến việc biết ơn.
Riêng người Samari, người ngoại giáo, anh ta
không ràng buộc mình nơi con chữ của Lề
Luật. Trước sau gì, anh
ta cũng gặp tư tế như Lời Đức Giêsu
đã truyền, nhưng ngay lúc này, anh phải vội vã quay
lại để gặp người chữa lành cho anh. Anh
sợ rằng: Người sẽ đi mất,
Người đem ánh sáng cho cuộc đời anh,
Người tái sinh anh trong trần đời này sẽ
không còn đứng lại đó để anh kịp nói lên
lòng tri ân. Hành động
vội vã quay lại này không mang hình thức của lòng
biết ơn đơn thuần nhưng là lòng biết
ơn tận thâm tâm. Anh khao
khát, nao nức gặp Người để tri ân. Đến với Chúa với lòng
ước ao, khao khát Chúa, chính là hành vi tri ân hoàn hảo:
“Lễ toàn thiêu và lễ xóa tội, Chúa không đòi. Con
liền thưa: Này con xin đến” (Tv 39,7-8).
Thay lời kết, tôi muốn nhìn lại ba
bài học quí giá sau khi suy niệm đoạn Tin Mừng
này. Trước tiên, tôi
được mời gọi đón nhận sự khác biệt
của người khác, không co tròn trong vỏ ốc tự
tôn, phải mạnh dạn phá vỡ thành kiến
để Thiên Chúa dễ dàng dùng tôi như “khí cụ bình an
của Ngài” (Kinh Hòa Bình – Thánh Phanxicô Assisi). Thứ đến, nơi
nghịch cảnh cuộc đời, Thiên Chúa như
đang chơi trò đánh đố niềm tin của con
người. Tôi
được tiếp thêm sức mạnh nơi
đời sống cộng đoàn Kitô hữu, qua kinh nguyện,
sự chia sẻ, cảm thông để vững tin
rằng: Chúa không bỏ rơi tôi. Nếu tôi mạnh
dạn trở thành khí cụ bình an của Chúa cho tha nhân, thì
chắc chắn: Chúa cũng sẽ gửi một khí cụ
bình an khác đến với tôi.
Cuối cùng, như người Samari, một hình
ảnh tuyệt vời của lòng khao khát tri ân, chúng ta cùng
hiệp thông xin Chúa đong đầy lòng khao khát tạ
ơn Chúa nơi mỗi người chúng ta. Amen!
|