Lòng tin là một ân huệ Chúa ban --- Suy niệm của Lm Đaminh Trần
Đình Nhi
Chúa Giêsu mời gọi ta tin vào
Người. Trước lời mời
gọi này, nhiều người Do-thái và các nhà lãnh
đạo của họ từ chối không nhìn nhận
Chúa Giêsu cũng như sứ mệnh cứu thế của
Người. Trái lại, các môn đệ và Kitô
hữu thì khẩn cầu Người: “Thưa Thầy, xin
thêm lòng tin cho chúng con.” Lời cầu xin của các môn
đệ và lời giải thích của Chúa Giêsu giúp ta
hiểu được những chiều kích khác biệt
của đức tin. Tại sao ta xin Chúa thêm
lòng tin cho ta? Đâu là sức mạnh
của lòng tin? Ngoài ra, Chúa Giêsu dùng tỉ dụ
người đầy tớ làm việc bổn phận
để làm sáng tỏ ý nghĩa nào về lòng tin của
ta?
a)
Lòng tin là một ân huệ Chúa ban
Giáo lý Công giáo gọi đức tin là
nhân đức đối thần, nghĩa là chính Thiên Chúa
mới là đối tượng của lòng tin. Đức tin không khởi đầu
từ nơi ta, nghĩa là không phải tự ta muốn tin
vào Chúa mà là Chúa muốn ta hãy tin vào Người. Nhưng
tại sao Người muốn ta phải tin vào
Người? Bởi vì Người có tất cả
những đặc tính để ta có thể nhìn nhận
Người là Đấng nào, phó thác mọi sự trong tay uy quyền của Người và nhất
là có thể lãnh nhận tình yêu Người dành cho ta.
Tất cả những đặc tính ấy làm cho
Người trở nên đối tượng lòng tin
của ta. Người đã tỏ mình cho ta biết về
Người, đó là một ân huệ
cho ta và là khởi đầu cho một mối quan hệ
Người muốn thiết lập giữa Người
với ta. Vì thế, đức tin có hai phía: về phần
Chúa, Người là Đấng “trung thành” trong giao ước
Người thiết lập với ta; về phần ta, ta
có bổn phận phải đáp lại lòng trung thành
của Người. Người muốn
đưa ta tới cùng đích của đời ta là
được cứu rỗi và sống bên Người mãi
mãi.
Đức tin có lịch sử của
nó, lịch sử gắn liền với lịch sử
của một dân tộc. Ông Áp-ra-ham, cha các kẻ tin, đã
được Thiên Chúa tuyển chọn để làm
tổ phụ dân tộc Do-thái vì ông “đã tin vào Thiên Chúa” (St
15,6). Người gọi ông thi hành sứ
mệnh dẫn đầu một dân tộc để
chuẩn bị cho toàn thể nhân loại đón nhận
ơn cứu rỗi. Ông là gương
mẫu sống đức tin. Cả cuộc
đời ông là luôn tín thác vào Thiên Chúa là Đấng trung
thành và toàn năng (Dt 11,11; Rm 4,21). Mà tin vào Thiên Chúa tức là vâng lời Người
và thi hành những điều Người dạy.
Tiếp đến, ông Mô-sê và các ngôn sứ là những
người được Thiên Chúa tuyển chọn
để hướng dẫn dân Chúa luôn biết tin vào
Người và kế hoạch cứu độ
Người sẽ thực hiện qua dân Do-thái. Thăng trầm của lịch sử đức
tin phản ảnh qua lịch sử dân Do-thái. Tuy nhiên
cuối cùng, theo thiên ý nhiệm mầu
của Thiên Chúa, lịch sử đức tin vẫn
diễn tiến theo “kế hoạch yêu thương
Người đã định từ trước trong Đức
Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn, là
quy tụ muôn loài trong trời đất dưới
quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ep 1,9-10). Đức tin đạt tới
mức hoàn hảo nơi Chúa Giêsu, Người Tôi Tớ
đã lên đường đi Giê-ru-sa-lem mà “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu
chết” (Pl 2,7t) để dẫn đưa đức
tin của ta đến mức toàn thiện (Dt 12,2).
Như vậy, đối với
một cá nhân hay đối với một dân tộc,
lịch sử đức tin là một diễn tiến quy
chiếu về Chúa Kitô và đưa ta đến kết
hiệp với Người để nhờ Người,
với Người ta đến với Thiên Chúa Cha.
b)
Sức mạnh của lòng tin
Các môn đệ xin Chúa Giêsu thêm lòng tin
cho các ông. Hoặc
nói khác đi, các ông xin Chúa giúp cho các ông tin vào Người
mỗi ngày một hơn. Lập tức
Chúa nói đến hiệu quả của lòng tin ấy.
Dĩ nhiên, Chúa không có ý nói đến những phép lạ
bề ngoài của lòng tin là những điều họ
đã chứng kiến và nhờ đó họ
được tăng thêm niềm tin vào Người.
Nhưng Chúa muốn nhắm tới những phép lạ
xảy ra trong tâm hồn mỗi người môn đệ theo Người. Người hứa:
“Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải, thì dù anh em có
bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới
biển kia mà mọc, nó cũng sẽ
vâng lời anh em.” Người muốn nói đến
những cây dâu của tính hư nết xấu đã
mọc rễ sâu trong tâm hồn ta từ bao năm, đúng
như Người đã khuyến khích ta khi gọi ta làm
môn đệ: “Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng.” Chúa
Giêsu bảo ta hãy để cho lòng tin vào Người
tỏa ra sức mạnh tiêu diệt con người
tội lỗi của ta, nhờ đó ta được
biến cải thành mẫu người vâng lời và
phục vụ giống như Người Tôi Tớ
của Thiên Chúa.
c)
Phục vụ trong khiêm tốn
Đức tin luôn ràng buộc với
sứ mệnh. Chúa Giêsu đã thi hành sứ
mệnh cứu thế với đức tin hoàn hảo, tin
vào tình yêu của Chúa Cha. Trước khi chết,
Người chỉ nói: “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19,30). Một câu nói ngắn
gọn, nhưng chứa đựng biết bao tâm tình.
Tâm tình cảm tạ Thiên Chúa Cha. Tâm tình biểu lộ lòng vâng phục. Và tâm tình khiêm tốn, không kể công hoặc khoe
khoang. Sở dĩ Chúa Giêsu có được những
tâm tình ấy là vì suốt cuộc sống trên trần gian,
tâm niệm của Người chỉ là thi hành thánh ý Chúa
Cha hoặc tin vào Thiên Chúa Cha mà thôi. Cho nên hôm nay Người
dạy ta cùng một bài học ấy: “Đối với
anh em cũng vậy. Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là
những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ
làm việc bổn phận đấy thôi.”
Tỷ dụ người đầy
tớ chu toàn bổn phận cũng cho
ta thấy rõ hơn khía cạnh ân huệ của lòng tin. Ta
có được lòng tin vào Chúa, đó là ân
huệ Chúa ban nhưng không. Mà Chúa đã dạy: ta nhận
được nhưng không thì cũng hãy cho nhưng không.
Nhận lấy và cho đi là năng động của
đức tin được thể hiện trong
đời sống phục vụ của người môn
đệ, y hệt như Chúa Giêsu đã lấy tất
cả những gì Chúa Cha ban cho Người mà ban lại cho
các môn đệ Người, kể cả sự sống
của chính Người. Một đức tin như
thế mới đích thực là đức tin sinh
động, chứ không phải đức tin chết (Gc 2,17).
d)
Suy nghĩ và cầu nguyện
“Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng
con” là lời cầu
nguyện hằng ngày của tôi, hay chỉ là lời kêu
cứu khi tôi gặp khó khăn hoạn nạn? Lời cầu nguyện ấy có
đồng nghĩa với lời cầu xin cho tôi
“được biết Chúa Giêsu rõ ràng hơn, yêu mến
Người nồng nàn hơn và theo
Người mỗi ngày một trung thành hơn”?
Tôi thử nhìn lại lịch sử
đức tin của tôi.
Đức tin của tôi đang ở giai
đoạn nào? Vẫn còn là những điều
học thuộc lòng về đạo hay đã bắt
đầu tiến đến giai đoạn nhận ra
ơn gọi và sứ mệnh của mình, để sống
mối quan hệ với Chúa?
“Những cây dâu” nào trong tôi cần
phải bật rễ đi để tôi trồng những
cây trái sinh hoa quả đạo đức?
Cầu nguyện:
“Lạy Chúa Giêsu, con chẳng
dám xin đi trên mặt nước như Phê-rô, nhưng
nhiều khi con cảm thấy sống đức tin
giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên
mặt nước.
Có bao
thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn. Có bao cám
dỗ cuốn hút con vô vực sâu. Cả
sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con
xuống. Đi trên mặt nước
cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.
Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu
chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin
yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ
tênh mà bước những bước dài hướng
về Chúa. A-men.”
(Trích
RABBOUNI, lời nguyện 55)
|