Các
Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng
Chú giải của
Noel Quesson
Thánh Luca vẫn luôn tả lại
“cuộc hành trình cao cả và sau cùng” lên Giêrusalem của
Đức Giêsu. Ơ
đây, Luca dùng một công thức trịnh trọng
để dẫn nhập vào câu chuyện sắp kể.
Sau
khi đã nói với những người Pharisêu (Lc 16,1-31) kế đó với các môn đệ (Lc
17,14), Đức Giêsu nói với các “Tông đồ”. Trong các Tin Mừng khác, danh hiệu này chỉ dành
cho nhóm Mười Hai và chỉ nói một lần. Còn Luca dùng sáu lần trong Tin Mừng của ngài và
hai mươi tám lần trong sách Công vụ Tông đồ.
Dưới ngòi bút của ngài, chỉ Nhóm Mười Hai
mới có quyền có danh hiệu ấy: Họ là chứng
nhân chính thức của Tin Mừng của Đấng
Phục sinh cho đến tận cùng trái đất. “Apostoloi” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là
“những người được sai đi”.
Trong
đời sống hằng ngày, tông đồ là một vai
trò nặng nề trách nhiệm: Không ai có thể tự ban
cho mình chức vụ đó. Trong Giáo Hội tiên khởi,
người ta không thể không ý thức về đặc
quyền không thể chuyển giao và không thể tuyền
lại được đặt trên Nhóm Mười Hai:
Tính chất chính thống của “sứ vụ” và của
việc “sai đi” do đích thân Đức Giêsu ban cho. Chính Người đã chọn họ và đã sai
họ đi. Họ là các “chứng nhân”
của Người. Họ dã nghe lời
Người giảng dạy. Họ có thể nói
lại: Những lời ấy đến trực tiếp
từ Người. Họ có những cử
chỉ của Người. Họ có
thể lặp lại những cử chỉ ấy. Vẫn luôn là những cử chỉ của
Người. Nhất là họ thấy Người
sống động sau khi đã sống lại: Họ không
thể không cao rao điều đó cho đến tận cùng
trời cuối đất.
Theo một ý nghĩa loại suy, Giáo
Hội ngày nay yêu cầu mọi Kitô hữu trở thành các
“tông đồ”. Nhưng
những yêu sách của tính chất chính thống còn mãi trong
sự súc tích của chúng: Tôi cũng thế, tôi
được đích thân Đức Giêsu sai đi...
để trở thành chứng nhân của Người,
của tư tưởng, lời nói, cử chỉ, sự
cứu chuộc và tình yêu của Người.
Các Tông
Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy,
xin thêm lòng tin cho chúng con”
Danh xưng “Chúa” chỉ xuất hiện
một lần trong Matthêu và Maccô để chỉ
Đức Giêsu khi còn sống. Luca dùng danh xưng ấy mười
chín lần trong Tin Mừng ngài. Nhưng từ này không
được sử dụng bởi tình cờ: Ngài luôn
luôn muốn chỉ đến vinh quang của Đấng
Phục sinh.
Hơn nữa, lời cầu xin của
các tông đồ cũng không tầm thường. Đây là lần duy
nhất mà người ta thấy bạn hữu của
Đức Giêsu nói với Người một lời
“cầu xin”, “như thể” Người là Thiên Chúa. Bằng một sự tham dự trước,
họ cầu xin Đức Kitô trong vinh quang Tin Mừng,
với Đấng mà sau này họ đã khám phá sự
đồng nhất mầu nhiệm với Đức Chúa.
Chúng ta chớ quên rằng Đức Giêsu
đi lên Giêrusalem, sự kết thúc đến gần.
“Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho
chúng con”.
-
Trở
thành tông đồ, không đơn giản là một
quyết định của con người.
-
Trở
thành chứng nhân của sự sống lại trước
tiên không do bởi một sự hiển nhiên duy lý áp
đặt như khi người ta đơn giản
thừa nhận một sự kiện lịch sử
bắt buộc.
Chỉ
có đức tin mới mở ra cho những thực
tại thánh thiêng ấy và do đó siêu nhiên, bên trên mọi
thứ duy lý của khoa học. Và đức
tin là một “ơn của nhiên Chúa” “Lạy Chúa, xin thêm lòng
tin cho chúng con!”
Vậy thì ai, nếu không phải là chính
Thiên Chúa đã có thể biến đổi các tông
đồ sau sự bỏ trốn và chối bỏ
thảm hại của họ?
Vậy thì ai nếu không phải là Thiên
Chúa, đã làm họ trở thành những “chứng nhân can
đảm” đến độ chịu tử đạo? Không, đức tin không phải là
một điều hiển nhiên, một điều chinh
phục được, một sự căng thẳng
của trí tuệ và ý chí con người. Đức tin là
sự đón nhận khiêm tốn một ân
huệ, một ân sủng. Điều đó không có nghĩa
con người không làm gì cả: “đón nhận” là một
hành động tích cực cao độ của con
người. Bạn không phải là ánh sáng. Nhưng nếu
bạn khép cửa lại thì mặt trời muốn vào nhà
bạn để chiếu sáng sẽ không bao giờ có
thể vào được. Đức tin là
một mặt trời. Một “ơn” luôn luôn
được ban tặng cho tất cả mọi
người. Nhưng phải mở cõi lòng
mình ra. “Ơn của Thiên Chúa”, sáng kiến không mất
tiền và siêu nhiên nên đức tin phải được
“cầu xin”: Lời cầu nguyện là cánh cửa sổ
của đức tin; phải được mở ra
để đón nhận ơn Thiên Chúa. “Lạy Chúa, xin cho
con đức tin. Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng
con...”
Chúa
đáp: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt
cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên,
xuống dưới biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ
vâng lời anh em
Một
hình ảnh khó quên theo đúng kiểu
mẫu Palestine, và rất đạt trong văn phong
dùng nghịch lý của Đức Giêsu. Hạt cải là
loài “nhỏ nhất trong các loại hạt” (Mc 4,31). Còn cây dâu là cây rất khó bật rễ, theo các câu nói của những giáo
trưởng Do Thái. Dĩ nhiên, Đức Giêsu ở đây
không khuyên người ta cầu xin những phép lạ
giật gân: Người không bao giờ dời cây dâu
xuống biển; và nhiều lần, Người đã
từ chối các “dấu chỉ” kỳ diệu mà
người ta yêu cầu Người. Nhưng bằng hình
ảnh này, Người mạnh mẽ nói với chúng ta
rằng đức tin mở chúng ta cho điều bất
khả, cho Thiên Chúa.
Một
đức tin nhỏ nhất còn mạnh hơn mọi
cộng việc của con Người bởi vì sự tham
gia vào chính sức mạnh của Thiên Chúa là một việc
lớn lao. Thật vậy,
sau khi Chúa sống lại, hiệu quả đức tin
của các Tông đồ không cân xứng với khả
năng nghèo nàn của con người họ. Vốn là những người không có ảnh
hưởng, quyền lực, phương tiện tài chính,
tổ chức, báo chí, truyền hình, tóm lại không gì
cả... thế mà họ đã thay đổi dòng lịch
sử. Ngày nay, bởi sự kiện lịch sử
này và bởi lời của Đức Giêsu, chúng ta
được mời gọi từ bỏ các phương
tiện của quyền lực, không trông cậy vào các
phương pháp về phương tiện tông đồ
tinh xảo nhất và được chương trình hóa
tốt nhất... để chỉ dựa vào đức
tin và mở lòng ra với đức tin bằng lời
cầu nguyện.
“Các
bạn hãy nhìn xem: Một trinh nữ sinh con, một
người được sinh ra từ Thiên Chúa; thiên
đàng ở giữa chúng ta; chỉ còn một dân tộc...
Chỉ cần một chút đức tin và các bạn sẽ
thấy cây mọc trong biển, những người ăn
mày trở thành những ông vua, những kẻ có quyền
thế bị lật đổ, người ta chia sẻ
các kho tàng... Các bạn hãy nhìn: nước biến thành
rượu và rươụ trở thành máu, bánh hóa ra
nhiều và dân chúng không còn đói nữa... chỉ cần
một chút đức tin và các bạn sẽ thấy cây
mọc trong biển, các sa mạc đầy hoa,
người ta gặt lúa vào mùa đông và kho lẫm
đầy tràn...”. Chỉ cần một
chút đức tin, nhỏ như một hạt cải
để thấy những người chán nản lấy
lại niềm hy vọng, những người tội
lỗi đứng dậy, những con đường
không lối thoát được mở ra, chiến tranh
chấm dứt, tình yêu được tái sinh... vâng, cây
mọc trong biển, núi dời chỗ. Những
ngọn núi của sự sợ hãi, ích kỷ và đê
tiện. Thế giới đang khủng hoảng! Giáo Hội đang khủng hoảng? Chỉ
cần một chút Đức tin... Gia đình đang
khủng hoảng! Học đường
đang khủng hoảng. Kinh tế
đang khủng hoảng? Sự chết chiến
thắng, thập giá trống rỗng và trần trụi,
nhưng mộ Người trống rỗng, mở ra và
Người đứng đó, bên kia
biển! Và “cây cối nhảy múa vui mừng”
(Thánh Vịnh 95).
Ai trong anh
em có người đầy tớ đi cày hay đi
chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại
bảo nó: ‘Mau vào ăn cơm đi’, chứ không bảo:
‘Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho
ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau
Trước tiên chúng ta cứ để
cho mình công phẫn vì sự nghiêm khắc đó. Dĩ nhiên hoàn cảnh
của nô lệ ở Palestine vào thời Đức
Giêsu ít khắc nghiệt hơn ở trong thế giới La
Hy vào thời của Thánh Luca nơi mà một hoàn cảnh
lệ thuộc của những nô lệ thật bi đát
đến nỗi chúng ta khó mà tưởng tượng tình
hình đó lại phổ biến như thế. Người nô lệ là
“vật sở hữu” của ông chủ mà ông chủ không
phải trả lương, cũng không biết ơn.
Cần phải nói thêm rằng chúng ta
không có quyền dựa vào những lời nào đó của
Đức Giêsu để biện minh cho những thái
độ chống đối lại xã hội ngày hôm nay. Những đoạn Tin
Mừng biện hộ cho tình yêu thương, sự chia
sẻ, sự tôn trọng người khác có quá đủ.
Chẳng
lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì
nó đã làm theo lệnh truyền sao?
Lạy
Chúa, phải đấy. Phải biết
ơn. Chúa cũng biết vậy mà: Nhưng Chúa có ý
đinh nói với chúng con một chân lý rất quan trọng
và để nói với chúng con điều ấy, Chúa dùng
những hình ảnh nghịch lý hầu như khó bênh
vực được theo những chuẩn mực của
con người như chúng con.
Đối
với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả
những gì theo lệnh phải làm
Lạy
Chúa, Chúa muốn nói về điểm này. Vấn đề
không phải là một bài học về các quan hệ xã
hội! mà là một bài học về các
quan hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa: Đức Giêsu là
con người hướng về Thiên Chúa hoàn toàn và
triệt để Người phá bỏ những thói
tự phụ nực cười của chúng ta. Người đặt mọi vật trở
về vị trí chân thật của chúng ta. Lừa phỉnh mình làm gì cho vô ích. Thiên Chúa là tất cả. Tôi
không là gì cả trước mặt Người.
Hơn bao giờ hết, ngày hôm nay chúng
ta phải lắng nghe sự thật hiển nhiên đó. Thiên Chúa là “ông chủ”! Hình ảnh này
khắc khổ nhưng chân chính và chúng ta không nên đặt
nó đối lập với nhiều hình ảnh khác qua
đó Đức Giêsu nói về Thiên Chúa như một
“người cha”, một “người chồng”, kể
cả một “người phục vụ”: “Chủ nhà
sẽ làm gì? Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ
thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn và đến
bên từng người mà phục vụ “ (Lc
12,37). Chúng ta phải chấp nhận những
mâu thuẫn bên ngoài đó.
Vâng,
lạy Chúa, con chấp nhận đặt mình trước
mặt Chúa như một người đầy tớ hoàn
toàn nhỏ bé, chăm lo thực hiện với lòng trung tín
tất cả những gì mà Chúa đã truyền cho con.
Như Đức Maria, như biết bao vị thánh sẵn
sàng để “phục vụ”. Thánh nữ Jeanne d’Arc đã
nói: “Phải phục vụ Thiên Chúa trước tiên”.
Đức Maria đã nói: “Tôi đây là nữ tỳ của
Chúa”.
Hãy nói:
chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi
đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi
Trước
khi yêu cầu chúng ta, Đức Giêsu đã sống
điều đó: Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên
Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa nhưng mặc
lấy thân nô lệ vâng lời cho đến nỗi
bằng lòng chịu chết” (Pl. 2,6).
Những
người Pharisêu sau cùng đã tưởng rằng họ
đáng hưởng thiên đàng bới những công phúc
của họ: Có qua có lại mà. Vả
lại Thiên Chúa là Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng không
tính công để trả lại cho chúng ta, Đấng mà
không một ai có thể sai khiến. Tự phụ
rằng mình có một quyền năng đủ là ma
thuật hay không là ở trước mặt một
“thần tượng” chứ không phải trước
mặt Thiên Chúa.
Thái
độ chân thật duy nhất trước Thiên Chúa là
tuyệt đối không đòi tính công, là hoàn toàn vô tư. Trở thành người đầy
tớ theo cách của Đức Giêsu
không phải là nhục nhã: Phục vụ, chính là thống
trị!
|