Người nghèo… nằm bên
cổng nhà
(Suy niệm của Lm. Antôn
Nguyễn Văn Độ)
Dụ ngôn Đức Giêsu kể cho chúng
ta hôm nay được xếp vào loại chú giải “các
dụ ngôn khủng hoảng đạo đức”, giúp
chúng ta nhận thức được vấn đề
đích thực trong đời sống, và đặc
biệt cảnh báo chúng ta rằng sau thời gian của
lòng thương xót, chắc chắn đến sự phán
xét bất ngờ. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để dạy chúng ta,
Ngài đã xây dựng cốt truyện hợp tình hợp lý
khi dựng cảnh và giới thiệu các nhân vật,
rồi kết luận bất ngờ, buộc chúng ta phải
im lặng và suy nghĩ.
Chi
tiết “người phú hộ vận toàn gấm vóc,
lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đinh” báo
trước, đây là người không có nhân đức
chừng mực; nhưng không nói ông đã làm giầu cách
bất lương: ông dùng của cải ông có. Tương phản liền với câu văn sau
(anh Lazarô nghèo), gợi lên những chỉ trích phê bình. Người phú hộ, nếu có điều
kiện ông sẽ chè chén, đó là việc làm của ông;
nhưng ông không nhận ra anh Lazarô nghèo nằm ngày ở
cổng nhà mình là một điều không thể chấp
nhận được.
Đời sống ích kỷ khiến
ông chỉ chú ý đến mình và qui mọi sự về
mình, nên ông bị mắc kẹt trong sự thờ ơ,
trở thành tù nhân của nhà tù mạ vàng của chính ông. Ông đã trở nên mù quáng
trước nhu cầu của người anh em
đồng loại, và điếc trước tiếng
gọi của Thiên Chúa từ bi ái tuất.
Sự kiện bất ngờ ập
đến với nhà phú hộ và anh Lazarô nghèo là cả hai
cùng chết, cùng chịu xét xử cách. Đức Giêsu cho thấy rõ bản án thật nghiêm khắc: người nghèo vui
mừng và đầy tràn hoan lạc, được đem
lên trời nơi lòng Abraham, vui mừng giữa các triều
thần thánh. Còn nhà phú hộ được
đem đi chôn cất trong lòng đất. Mỗi
người bằng bắt đầu cuộc sống
của mình sau cái chết: người nghèo được
tách khỏi thế gian này, anh có thể được
cất nhắc lên trời; người giầu khám phá ra
sự hư không của một cuộc đời với
những thú vui trần thế.
Thật
đáng ngạc nhiên khi tình thế hoàn toàn bị đảo
ngược sau khi chết, cuộc đối thoại
giữa Abraham và người giầu có khẳng
định điều đó: nhà phú hộ đau khổ
tột cùng, ông nài xin Lazarô cho ông một chút nước
để làm mát lưỡi. Thật không thể nào
hiều nổi một “vực thẳm” ngăn cách,
khiến người ta không thể làm được
một cử chỉ nào với lòng thương xót . “Vực thẳm không
thể qua được này” đề cập đến
sự cần thiết phải hoán cải ngay lập
tức. Ngay hôm nay cần phải
thức tình “Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy
bạn hữu, để khi mất hết tiền
bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an
nghỉ đời đời” (Lc 16, 9), ngày mai sẽ quá
muộn.
Dụ
ngôn kết thúc ở đây: như một lời nhắc
nhở hữu ích về ảo tưởng của sự
giầu sang mà tiên tri Amos đã loan báo mạnh mẽ trong bài
đọc I. Tuy nhiên, trong trình thuật Đức Giêsu
lại làm nổi bật hơn, khi đưa ra một
vấn đề thời sự khá bất ngờ, buộc
người nghe phải đặt mình trong tương quan
với bản thân.
Nhà phú hộ xin với Cha Abraham, nếu
không bớt được đau khổ cho ông thì ít ra
cũng cảnh báo anh em ông khỏi rơi vào cảnh
buồn tủi thế này.
Câu trả lời của tổ phụ Abraham nại
đến “Môisen và các tiên tri” sẽ thức tỉnh
lương tâm họ: nhưng theo nhà phú
hộ thì các chứng nhân Cựu Ước không đủ
để thức tỉnh anh em ông về sự quyến
rũ của thế gian này. Nên ông nài nỉ: “Nhưng
nếu có ai đó trong kẻ chết hiện về với
họ, thì ắt họ sẽ hối cải”. Lời
khước từ của Abraham khép lại dụ ngôn ngày
lập tức: “Nếu chúng không chịu nghe Môisen và các tiên
tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa,
chúng cũng chẳng chịu nghe đâu”.
Rõ
ràng: nếu chúng ta từ chối nghe lời Thiên Chúa không
ngừng kêu gọi sám hối ăn năn,
cứ đóng kín lòng mình trong sự ích kỷ của cái tôi,
chúng ta sẽ không thể gia nhập cộng đoàn huynh
đệ đã được Đức Kitô Phục sinh
khai mở.
Cánh
cửa Năm Đức Tin đang từ từ khép
lại, thiết tưởng chúng ta cùng nhau nghe lời
dạy của Thánh Công Đồng Vaticanô II:
Của cải trần gian là để
cho mọi người hưởng dụng. Thiên Chúa đã đặt
định trái đất và mọi vật trên trái
đất thuộc quyền xử dụng của mọi
người và mọi dân tộc. Chính vì thế,
của cải được tạo dựng phải
được phân phối cho tất cả mọi
người một cách hợp lý theo
luật công bằng là luật đi liền với bác ái.
Dù chấp nhận bất cứ hình thức tư hữu
nào đã được nhìn nhận bằng các định
chế hợp pháp của các dân tộc, tuy nhiên tùy theo hoàn cảnh khác biệt và thay đổi,
phải luôn luôn lưu ý đến mục đích chung
hưởng của cải. Vì thế, khi xử dụng
của cải, con người phải coi của cải
vất chất mà mình làm chủ một cách chính đáng không
chỉ như của riêng mình, nhưng còn là của chung nữa: nghĩa là, của cải đó
có thể sinh ích không những cho riêng mình mà còn cho cả
người khác. Vả lại, mọi
người đều có quyền có một phần
của cải đầy đủ cho mình và cho gia đình
mình. Các Giáo Phụ và các Tiến Sĩ
Giáo Hội đã nghĩ như thế. Các
ngài dạy rằng mọi người có bổn phận
phải nâng đỡ người nghèo và không phải
chỉ giúp đỡ bằng của dư thừa. Còn những người sống trong cảnh cùng
quẫn cực độ, họ có quyền lấy ở
của cải người khác những gì cần thiết
cho mình. Trước con số quá lớn những
người đói khổ trong thế giới, Thánh Công
Đồng thiết tha kêu gọi mọi người
hoặc mọi chính quyền hãy nhớ laị lời sau
đây của các Giáo Phụ: "hãy cho kẻ sắp
chết đói của ăn, vì nếu không cho họ ăn tức là đã giết họ". Tùy theo khả năng, họ nên thực sự
san sẻ và dùng của cải của mình đặc
biệt để giúp phương tiện cho mỗi
người hoặc cả một dân tộc để
chính họ có thể tự túc và phát triển. “Gaudium et Spes”, • 69.
Vậy,
hãy hướng nhìn về Chúa Giêsu, là nguồn gốc và cùng
đích của đời sống đức tin, hãy
sống “trong tình yêu, kiên trì và hiền hậu; tuân giữ
huấn lệnh Chúa truyền”, nghĩa là: sống trong tình
bác ái huynh đệ chịu đựng lẫn nhau, cho
tới ngày chúng ta ra trước tòa Thiên Chúa, “là Chúa tể
duy nhất, là Vua các vua, Chúa các chúa, chỉ mình Ngài tồn
tại đến muôn đời” đón chúng ta vào nhà
của Chúa và ban cho chúng ta sự sống của Chúa,
thể theo sự quan phòng nhân từ của Ngài đối
với chúng ta, qua Đức Giêsu Kitô (Ep 1). “Nơi
Người, mọi vinh quang và quyền lực dến muôn
đời. Amen!”
|