Biết khôn ngoan tiên liệu – Lm
FX Vũ Phan Long
Của
cải được trao vào tay chúng ta là để chúng ta
dùng mà phục vụ anh chị em.
1.- Ngữ cảnh
Với
chương 16, Tin Mừng Luca thêm vào những dụ ngôn và
những lời nói khác của Đức Giêsu. Tuy nhiên, trong
khi đề tài của ch. 15 là niềm vui vì tìm lại
được những gì đã mất, trong ch. 16 này,
đề tài là thái độ đối với của
cải và cách sử dụng chúng. Dù thế, vẫn có
thể cho rằng đề tài mới này đã
được báo trước ở ch. 15 bằng truyện
đứa con thứ phung phí của cải. Bây giờ,
chúng ta có hai dụ ngôn, Người quản lý bất
lương (cc. 1-8a) và Ông nhà giàu với Ladarô (cc. 19-31),
triển khai rõ ràng đề tài mới này. Ta cũng
thấy có những lời Đức Giêsu được
gắn vào dụ ngôn thứ nhất (cc. 8b-13) và những
lời khiển trách người Pharisêu ham tiền (cc.
14-15). Chỉ có hai lời không
liên hệ đến đề tài, đó là lời nói
về Lề Luật (cc. 16-17) và lời nói về ly dị
(c. 18).
Về
bài dụ ngôn Người quản lý bất lương, cho
đến nay bài này vẫn là một crux interpretum (“thập
giá của các nhà chú giải”). Để hiểu dụ ngôn
và các áp dụng, điều chủ yếu phải làm sáng
tỏ là bản chất luân lý của hành động của
người quản lý liên hệ đến các biên nhận
của các con nợ của ông chủ. Ý kiến vẫn
được đa số chấp nhận là người
quản lý, đã bất lương trong quá khứ, khi làm
thất thoát tài sản của chủ, nay làm thêm một hành
vi bất lương nữa khi sửa lại các biên
nhận, khiến tài sản của chủ càng hao hụt
thêm. Nhưng nếu đây là ý nghĩa của bản
văn, ta khó mà hiểu được là vì sao ông chủ có
thể khen ngợi người quản lý là khôn khéo, và vì
sao Đức Giêsu có thể rút từ cách hành động
này một kết luận chấp nhận được.
Dĩ nhiên, về phương diện luận lý, ta có
thể tách sự tiên liệu và khôn khéo ra khỏi những
phương diện khác của hành động của
người quản lý. Nhưng những phân biệt như
thế thì không dễ nắm
bắt đối với những tâm trí không quen kiểu
làm việc này, còn đám đông Kitô hữu thì hẳn là
vẫn cảm thấy lúng túng khi đọc thấy sự
song đối Đức Giêsu thiết lập giữa
người quản lý và các môn đệ Người. Không
lẽ Đức Giêsu, là người vẫn quen ngỏ
lời với các con tim, lại thật sự đề ra
một dụ ngôn hàm hồ như thế trong một
vấn đề đụng chạm đến sự vô
luân, bị mọi người phản đối?
Ngoài
ra, cứ cho đi là người quản lý đã giả
mạo các biên nhận nợ, thì anh ta chỉ càng làm cho hoàn
cảnh của mình thêm trầm trọng, mà cũng chẳng
giữ được kín, vì anh sắp phải báo cáo
sổ sách, với lại bản văn cho thấy là ông
chủ biết rất nhanh chuyện vừa xảy ra. Và
cũng khó mà hiểu vì sao anh lại được khen là
khôn khéo. Nếu thế, dụ ngôn này nói về một hành
động khó có thật.
Chúng
ta đừng quên rằng Đức Giêsu không hề
đánh giá hành vi của người quản lý về
mặt luân lý, mà chỉ nói là anh khôn khéo thôi. Chính câu 8
gọi anh là “bất lương”, nhưng đó là trong quá
khứ, trước khi anh ta làm hành động được
bài dụ ngôn kể ra, còn hành động này không nhất
thiết là bất lương (x. Dụ ngôn ông quan tòa
bất chính đã xử công bình cho bà góa: Lc 18,2-8). Xin coi
trong phần chú giải.
2.- Bố cục
Bản văn có
thể chia thành hai phần:
1) Dụ ngôn
Người quản lý bất lương (16,1-8a);
2) Ba áp dụng
của Dụ ngôn (16,8b-13):
a)
Áp dụng 1 (cc. 8b-9),
b)
Áp dụng 2 (cc. 10-12),
c)
Áp dụng 3 (c. 13).
3.- Vài điểm chú giải
- một
người quản lý
(1): Danh từ Hy Lạp oikonomos thường là một
người nô lệ sinh ra tại nhà chủ (x. St 15,3: ben
bayit, “một người con của nhà”; St 14,14: yelid bayit,
“người sinh ra của nhà”), nhưng không nhất
thiết là như thế. Tại Paléttina, người
quản lý không được trả lương; anh toàn
quyền thay mặt chủ để giao dịch làm ăn.
Nếu anh ta biển thủ, thì không có một hành vi pháp lý
nào có thể giúp chủ thu hồi của cải cả; ông
chủ chỉ có thể phạt bằng cách trách mắng,
tiết lộ hành vi bất lương của anh ta để
làm anh mất tiếng tốt, rồi thải hồi anh
thôi. Sau khi đã biết quyết định của
chủ, người quản lý phải tính sổ, nhưng
vẫn đại diện của chủ. Vì không có
lương, người quản lý có thể cho vay lấy
lãi. Thật ra Luật Môsê cấm cho vay lấy lãi (x. Xh
22,25; Lc 25,36; Đnl 23,20-21), nhưng người Do Thái có
cách xoay sở: người ta bảo là Luật nhắm che
chở những người túng cực khỏi bị bóc
lột. Do đó, nếu chứng minh được là
người vay mượn đã có một phần của
cải anh muốn mượn, và như vậy phần vay
mượn không là cấp bách, thì có thể lấy lãi.
Chẳng hạn dầu và lúa (đó là lý do khiến hai
thứ này được đưa ra làm ví dụ ở
đây): ai mà chẳng có đủ dầu để
đốt một cái đèn? Ai lại không có đủ lúa
để làm một cái bánh? (Mishna). Ở đây, anh
quản lý tha phần lãi (quá đáng) để trả
lại nguyên vốn cho chủ[1].
- tố
cáo (1): Động
từ Hy Lạp diaballein thường có sắc thái vu
khống.
- phung phí
của cải (1):
Động từ Hy Lạp diaskorpizein cũng
được dùng trong dụ ngôn Người con phung phá
(15,13) để mô tả một cách sử dụng hoang phí
các của cải. Bản văn không nói rõ anh “phung phí
của cải” trong những chuyện gì.
- Một
trăm thùng dầu ô-liu
(6): Danh từ Hy Lạp batos phiên âm từ tiếng Híp-ri bat,
“thùng” tương đương với khoảng 45 lít
(theo sử gia Gioxép, một batos = 72 xestai Hy Lạp hoặc
72 sextarii Rô-ma).
- viết
năm chục (6): Câu này
không có nghĩa là anh ta giả mạo số nợ
người ta mắc với ông chủ của anh.
Điều này có nghĩa là con nợ hiện mắc nợ
ông chủ chỉ năm mươi thùng dầu, còn năm
mươi thùng kia là hoa hồng của người
quản lý. Như thế số lãi là 50%. Bên Cận Đông
những món nợ về lương thực thường
có lãi cao như thế thật.
- Một
trăm bồ lúa (NTT- 7;
“Một ngàn giạ lúa”: CGKPV): tức là một trăm kor
lúa. Từ Hy Lạp koros phiên âm từ từ ngữ Híp-ri kor,
tương đương với 10 bats, hoặc 450 lít (bên
Hy Lạp có đơn vị đo lường medimnos = 1,5
kor).
- viết
tám trăm (7): Trong
trường hợp này, hoa hồng là 25% (trên tám mươi
bồ/giạ lúa). Lãi 1/3 hay 1/4 là chuyện bình
thường.
- Và ông
chủ khen (8): Ho kyrios có
thể hiểu là “Chúa (Đức Giêsu )” hay “ông chủ”.
Ở đây, ta hiểu là “nhà phú hộ kia” (c. 1) hay “ông
chủ” (cc. 3.5). Vì các lý do: (1) “Nhà phú hộ” rất có
thể là một chủ đất thường xuyên đi
vắng, nên đã giao việc quản lý công việc làm
ăn cho một người quản lý (oikonomos). Anh này không
phải chỉ là một người tôi tớ
được đặt đứng đầu những
tôi tớ khác (như ở 12,42), mà là một nhân viên của
ông chủ, được huấn luyện,
được tin tưởng và được giao
quyền thay chủ. Anh này có thể hành động nhân danh
chủ trong những giao dịch: theo cách thông thường,
anh này cho những người khác mượn của
cải của ông chủ với một phần hoa hồng
hoặc lãi được cộng thêm vào biên nhận; trong
biên nhận này thường chỉ ghi số nợ,
nghĩa là phần vốn cộng với phần lãi.
Đây là tập tục rất thông dụng bên vùng đông
Địa Trung Hải, Ai-cập dưới thời Hy
Lạp và Rô-ma, Paléttina, Xyri, Átxyri, và Babylon.
Vậy
tại sao ông chủ lại khen người quản lý? Tuy không biết số hoa hồng người
quản lý có được, chắc chắn ông chủ
biết là anh có làm theo thói tục lúc đó. Nhưng nếu
người quản lý cố tình giả mạo biên
nhận, hẳn là khó mà cho rằng ông chủ lại khen
anh. Ở đây, ông chủ khen người quản lý là vì
thấy anh khôn khéo, vì thấy anh này chấp nhận
loại bỏ phần hoa hồng khỏi những biên
nhận trước đây, trong đó có phần cho vay
nặng lãi. Như thế, anh đã biến những con
nợ của chủ thành người chiu ơn anh, mà không
làm thiệt hại gì đến chủ.
- con cái
ánh sáng (8): Đây là
một cách gọi các môn đệ Kitô hữu (x. 1 Tx 5,5; Ep
5,8; Ga 12,36).
- nơi
ở vĩnh cửu (9):
dịch sát là “các lều vĩnh cửu”. Có lẽ hình
ảnh này lấy từ lễ Lều, vì lễ này
được coi như một tiền ảnh của
thời đại cứu độ (Dcr 14,16-21).
- Tiền
của bất chính (9):
Danh từ mamonas là dạng hy-hóa của danh từ Híp-ri mamôn
hoặc danh từ A-ram mamôna’. Cách giải thích hợp lý
nhất là cho rằng từ này là một dạng của
ngữ căn ’mn, và có nghĩa là “điều mà người
ta đặt tin tưởng vào”, từ đó chuyển sang
nghĩa là “tiền bạc, của cải”. Đây là
tiền của thủ đắc hợp pháp, tức theo
luật lệ của loài người, nhưng hư
hỏng dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Dụ
ngôn Người quản lý bất lương (1-8a)
Bản
văn dường như mô tả một sự cố
đã thật sự xảy ra.
Người quản lý bị tố cáo là bất
lương, nhưng chúng ta không được biết
đích xác trong chuyện gì. Chúng ta chỉ biết là bây
giờ, khi thấy hoàn cảnh của anh đã thành bấp
bênh, vì ông chủ đã quyết định sa thải anh,
anh biết phản ứng nhanh và dứt khoát.
Người
quản lý biết rằng có nhiều người đang
nợ chủ anh những món nợ kếch sù. Anh gọi
các con nợ đến, rồi hỏi người thứ
nhất: “Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy ?” Người
ấy đáp: “Một trăm thùng dầu ô-liu”.
Người quản lý bảo: “Bác cầm lấy biên lai
của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm
chục thôi”. Món nợ đã được giảm từ
4.500 lít dầu ô-liu xuống còn 2.250 lít, tương
đương với tiền công nhật một năm.
Anh
ta gọi người thứ hai đang mắc nợ
một trăm bồ lúa, tức là khoảng 35 tấn
(kết quả thu hoạch của hơn 42 mẫu
ruộng tốt). Nay món nợ của ông giảm xuống
còn 80 bồ thôi, tức là bớt đi khoảng 7 tấn!
“Ông
chủ” (c. 8), dù là Đức Giêsu hay là ông phú hộ, đã
khen ngợi sự khôn khéo và sáng suốt của anh.
Người ta vẫn giải thích hành vi anh ta hướng
dẫn những người làm biên nhận là một hành vi
bất lương: thay vì bảo các con nợ viết
đủ số nợ thì lại bảo họ viết
bớt đi. Có một cách giải thích khách hợp lý
hơn: Vào thời Đức Giêsu, các quản lý không có
lương, nên họ được phép lấy hoa
hồng từ món nợ (25-50%). Như thế, ở
đây, người quản lý không làm thiệt hại cho
chủ, nhưng chỉ bớt món hoa hồng lẽ ra anh
được hưởng. Anh hy sinh một món lợi
nhuận ngắn hạn như thế để mong
được người ta tiếp đón lâu dài. Vì
thế, anh ta mới được khen là sáng suốt và
biết khôn ngoan tiên liệu.
Cho
dù chọn cách giải thích nào, các độc giả vẫn
phải nhớ điểm nhắm của dụ ngôn là:
sự thông minh của một người khi nhìn
đến tương lai của mình, hoặc nói bằng
ngôn ngữ tôn giáo hơn, các chọn lựa thận
trọng khi nhìn đến việc cứu độ
bản thân. Các môn đệ của Đức Giêsu cũng
phải hành động với một sự minh mẫn và
khôn ngoan như thế. Đức Giêsu bảo họ
rằng họ có thể học được nhiều
nơi các con cái thế gian trong việc phân tích kỹ
lưỡng hoàn cảnh, suy nghĩ chín chắn và có một
cách ứng xử thích hợp.
* Ba áp
dụng của Dụ ngôn (8b-13)
Thế
rồi Đức Giêsu đã chuyển từ ngôn ngữ
kinh tế của dụ ngôn sang ngôn ngữ phù hợp
với Do Thái giáo Ba áp dụng chứng tỏ cộng
đoàn Kitô hữu tiên khởi đã sớm mặc cho
dụ ngôn một bộ áo luân lý. Cả ba thuộc về
những ngữ cảnh khác nhau
Áp
dụng thứ nhất
(cc. 8b-9) mang màu sắc Sê-mít rõ ràng, có lẽ có một
bối cảnh Paléttina, với những thuật ngữ
“con cái thế gian” , “con cái ánh sáng”, “Tiền Của bất
chính”, “nơi ở vĩnh cửu”. Áp dụng này
đặt con cái thế gian ngang hàng với người quản lý (c. 8a). Do
sự “khôn khéo” của họ, họ hơn các “con cái ánh
sáng”, tức các môn đệ của Đức Giêsu, trong
cách dàn xếp với thế hệ này. Như thế, các
Kitô hữu có thể học được điều gì
đó từ sự khôn khéo của họ. Câu 8b là một
lời bình tổng quát hóa về kết luận của bài
dụ ngôn, nhấn mạnh trên sự khôn khéo trong
đời sống Kitô hữu. Câu 9 nêu ra khía cạnh cánh
chung của lời khuyên. Các Kitô hữu phải khôn khéo trong
cách sử dụng của cải vật chất, bây
giờ được gọi là “tiền của bất
chính”, để tạo lấy những bạn bè sẽ
đón họ vào nơi cư ngụ vĩnh cửu. Như
vậy, quyết định khôn khéo của người
quản lý (c. 4) được ẩn-dụ-hóa để
trở thành một khuyến khích sử dụng khôn khéo
của cải vật chất.
Áp
dụng thứ hai (cc.
10-12) rút một bài học từ bài dụ ngôn như là
một toàn thể và hệ quả về cách quản lý có
trách nhiệm. Khía cạnh cánh chung của c. 9 biến
mất, để nhường chỗ cho ý tưởng
về trách nhiệm và sự trung tín ngày qua ngày. Áp dụng
gồm ba câu ở thể song đối đối
nghĩa: câu 1 là câu tuyên bố (tương phản giữa
trung tín trong việc rất nhỏ và trung tín trong việc
lớn) ; câu 2 và 3 ngắn hơn, là câu hỏi (tương
phản giữa trung tín trong việc sử dụng
những của cải thông thường và những
của cải chân thật; tương phản giữa
việc sử dụng của cải của người
khác và của cải của chính mình). Như thế, cả
ba tương phản tóm tắt vai trò của sự trung
tín trong đời sống Kitô hữu.
Áp
dụng thứ ba (c. 13)
được đặt ở đây do từ móc
“tiền của” ở cc. 9,11 và 13d. Áp dụng này không liên
hệ với bài dụ ngôn, nhưng tóm một thái
độ tổng quát đối với của cải. Có
thể nói áp dụng này bình luận cc. 10-12 dể
đưa ra câu hỏi cho Kitô hữu: Anh em muốn phục
vụ ai?
+ Kết luận
Bài
dụ ngôn không lưu ý về bản tính độc hại
của của cải, cũng không chuẩn nhận cho
sự bất lương của người quản lý
(cc. 1-2), hoặc chuẩn nhận cho việc anh ta giả
mạo các biên nhận khiến gây thiệt hại cho
chủ. Câu chuyện nhắm đến sự khôn khéo
của ngưởi quản lý biết cách sử dụng
phần của cải thuộc về mình để lo cho
tương lai. Như thế, “người quản lý
bất lương” trở thành điển hình cho các Kitô
hữu về sự sáng suốt, khôn khéo. Đứng
trước một tình trạng khủng hoảng do sự
bất cẩn và những lầm lạc trong phán đoán
thuộc quá khứ, anh biết khôn ngoan đánh giá tình hình và
xoay sở hợp lý. Các Kitô hữu cũng đang phải
đối diện với đòi hỏi của
Nước Trời đang đến, nên cũng cần
biết sử dụng của cải để có thể
ứng phó với hoàn cảnh này.
Với
ba áp dụng thêm vào, bài dụ ngôn đưa tới chỗ
khuyến cáo các Kitô hữu phải biết sử dụng
của cải với tinh thần trách nhiệm và sử
dụng để phục vụ hạnh phúc của
người khác.
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Đức Giêsu đã đến như ánh sáng thế gian. Ai theo Người, thì có ánh sáng, với
điều kiện phải để cho ánh sáng
hướng dẫn. Muốn sống như là “con cái ánh
sáng”, các môn đệ Đức Giêsu phải để cho
Người hướng dẫn. Các môn đệ
Đức Giêsu thỉnh thoảng phải nghĩ
đến tương lai của họ, để không
bị bắt chợt mà trắng tay. Họ phải quan tâm
không những đến tương lai gần, mà cả
tương lai ở bên kia cái chết. Đó là nhắm
đạt được những “cái lều vĩnh
cửu”, túc sống hiệp thông bền vững với Thiên
Chúa. Tương lai ấy, người ta đạt
được hay bị mất, là do cách hành động
trong hiện tại. Tương lai này, Đức Giêsu giúp
các con cái ánh sáng đạt được, nhưng họ
phải chuẩn bị bản thân bằng một cách
sống biết tiên liệu. Chính họ cũng phải
biết sử dụng của cải vật chất cách
khéo léo và sao cho có thể đảm bảo tương lai,
nhờ biết tạo cho mình những bạn hữu.
Họ phải chứng tỏ họ là những
người quản lý được tin cậy và trung tín
trong những điều nhỏ nhất. Họ chỉ
đạt được như thế nếu họ
phục vụ Thiên Chúa chứ không phải tiền của.
2. Các Kitô
hữu sống như “con cái ánh sáng” là có trái tim thuộc
về Thiên Chúa.
Người phải là Đức Chúa mà họ yêu mến và
họ hướng tới. Chỉ khi đã khởi đi
từ một quan hệ như thế với Người, họ mới có
thể có một tương quan đúng đắn với
của cải trần thế và là tương quan bảo
đảm tương lai cho họ. Ai nhìn nhận Thiên Chúa
là Chúa tể thì cũng nhìn nhận Người là Chúa
tất cả của cải vạt chất và biết
rằng bản thân mình không phải là chủ tuyệt
đối các của cải đó, nhưng chỉ là
người quản lý.
3. Một
người quản lý lệ thuộc chủ mình và
chịu trách nhiệm trước mặt chủ. Anh không điều hành một của
cải của riêng anh, nhưng một của cải của
người khác, của cải được Thiên Chúa ký
thác. Anh là người trung tín và đáng tin nếu anh
biết đi theo ý muốn của chủ mình, chứ không
cư xử theo tính ngẫu hứng. Tất cả các ý
tưởng của anh phải nhắm đảm bảo
sao cho chủ không bị thiệt hại gì cả, không có gì
xảy ra ngược ý muốn của chủ. Qua
tương quan với các của cải của chủ,
người quản lý chứng tỏ giá trị của
tương quan của mình với chủ. Như thế,
các của cải trần thế đã được ký
thác cho chúng ta là để thử lòng chúng ta. Như
những người quản lý, qua các của cải
ấy, chúng ta phải chứng tỏ tương quan
của chúng ta với Thiên Chúa; chúng ta phải chứng
tỏ lòng trung thành và khả tín của mình.
4. Chúng ta
chứng tỏ mình biết sử dụng đúng dắn
các của cải khi biết dùng của cải mà tạo
cho mình những bạn hữu, do dùng của cải mà
phục vụ người thân cận. Các của cải không được
ban cho chúng ta để chúng ta hưởng thụ cách ích
kỷ, nhưng là để chúng ta dùng trong chiều
hướng nhắm đến tương lai, thể theo
ý muốn của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói đến
của cải vật chất, nhưng điều Ngài nói
cũng có giá trị cho mọi thứ của cải
trần thế khác, như các khả năng tinh thần,
các tài năng, kiến thức, học vấn…
5.
Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải sáng suốt và
biết tiên liệu.
Như thế, không thể phung phí của cải trần
thế vào việc hưởng thụ trong hiện tại.
Đàng khác, ai cho rằng mình có quyền bố trí các
của cải theo ý mình, là sai lầm. Chúng ta
được liên kết trước tiên vào Chúa. Chúng ta
không phải là chủ nhân tự trị, nhưng chỉ là
những quản lý các của cải của chúng ta. Và
của cải được trao vào tay chúng ta là để
chúng ta dùng mà phục vụ anh chị em. Chỉ khi đó,
chúng ta mới đảm bảo được
tương lai của mình.
-----------------------------------------------
[1] Xem J.D.M. Derrett, Law in the New
Testament (London 1970) 48-77; « “Take Thay Bond … and Write Fifty” (Luke
xvi,6): The Nature of the Bond » (JTS 23 [1972]) 438-440; P.W. Pestman, “Loans
Bearing No Interest”, Journal of Juristic Papyrology, 16-17 (1971) 7-29.
|