Thương người
Đề cập đến Tin Mừng nghiêm chỉnh
một chút, chúng ta sẽ nhận thấy rõ điều này:
những kẻ cầm quyền đương thời
trong đạo Do thái, những người Pharisêu,
những người tự cho mình là công chính… đã khinh
thường và tẩy chay Chúa Giêsu. Trái lại, những
người tội lỗi, những kẻ thu
thuế… đã trân trọng và nhận biết Ngài. Thử
hỏi: Nếu Chúa Giêsu trở lại giữa chúng ta hôm
nay, chúng ta sẽ thuộc hạng người nào? Thuộc
hạng người “công chính” không cần đến Ngài
hay thuộc hạng người tội lỗi, đối
tượng Ngài quan tâm khi đến thế gian? Bài Tin Mừng nêu lên vấn đề ấy.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu yêu thích “những gì
đã lạc mất” một cách hết sức ngỡ
ngàng. Ngài đến “tìm kiếm và
cứu vớt những gì đã lạc mất”. Những lời nói này giúp chúng ta đi sâu vào tâm
khảm của Chúa. Những lời nói đó đã làm
rung lên một cung nhịp chính yếu của Kitô giáo: cung
nhịp của tình thương.
Bài Tin Mừng thánh Luca kể lại
một loạt ba dụ ngôn cùng diễn tả về
một chủ đề duy nhất. Dụ ngôn thứ
nhất nói về sự lo âu tìm kiếm và mừng rỡ
của người chăn chiên khi tìm lại
được con chiên lạc trong số 100 con chiên. Dụ ngôn thứ hai tương tự như
vậy, nói về sự cố công tìm kiếm và vui mừng
của người đàn bà khi tìm lại được
đồng bạc rơi trong số 10 đồng.
Dụ ngôn thứ ba nói về tình phụ tử hay
thường gọi là dụ ngôn đứa con hoang
đàng. Cả ba dụ ngôn đều nói lên
tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Cả ba
đều cho biết Thiên Chúa vui mừng biết bao khi
một tội nhân ăn năn hối
cải. Dụ ngôn con chiên lạc cho thấy: khi
người chăn chiên tìm thấy con chiên lạc, đã
vác nó lên vai, vui sướng trở về nhà, kêu gọi láng
giềng lại và nói với họ: “Các bạn hãy vui
mừng với tôi vì tôi đã tìm được một con
chiên đã lạc mất”. Rồi Chúa kết luận: “Tôi
bảo thật các ông: trên trời sẽ vui mừng vì
người tội lỗi hối cải hơn 99
người công chính không cần hối cải”. Cùng
một cung giọng, trong dụ ngôn đồng tiền
mất, chúng ta thấy những câu kết còn rõ ràng và vui
vẻ tưng bừng hơn: “Tôi nói
thật với các ông: các thiên thần của Chúa sẽ vui
mừng vì một người tội lỗi ăn năn
thống hối”. Rồi trong dụ ngôn đứa con hoang
đàng, cung giọng càng cảm kích hơn nữa về
tình phụ tử của Chúa đối với
người tội lỗi thống hối ăn năn trở về với Chúa: khi
đứa con còn ở xa, người cha đã nhận ra
nó, và ông thổn thức trong lòng, chạy lại ôm cổ
con mà hôn.
Qua ba dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta hai
điều: Thứ nhất, sứ mạng tình
thương của Ngài. Thứ hai, bổn
phận và thái độ của chúng ta. Trước
hết, chúng ta đều biết: Sứ mạng của
Chúa Giêsu đến trần gian để cứu vớt
những kẻ tội lỗi. Ngài đến để kêu
gọi những người tội lỗi thống
hối ăn năn, và để tìm
kiếm, cứu vớt những gì đã lạc mất.
Thánh Phaolô trong thư thứ nhất
gửi cho Timôthêô cũng khẳng định: “Chúa Kitô
đến thế gian để cứu vớt những kẻ
tội lỗi”. Đó là động lực
cần có để kéo Ngài xuống thế gian. Về điểm này, giáo huấn của mạc
khải thật đồng nhất. Không có một
đoạn văn nào, không có một chỗ nào quả
quyết rằng: không có kẻ tội lỗi, Ngài cũng
vẫn xuống thế gian.
Quả thực, Chúa Giêsu đã
đến vì tội nhân. Đó chính là ánh sáng trong đó mạc
khải bày tỏ Chúa Giêsu cho chúng ta và chúng ta phải luôn
luôn ngắm nhìn Ngài trong ánh sáng này. Nói khác
đi, vì yêu thương loài người tội lỗi mà
Chúa Giêsu đã bỏ trời xuống thế gian. Chính tên “Giêsu” của Ngài, nghĩa là “Cứu
Thế” cũng đã gắn liền với kẻ có
tội. Cứu ai? Người
lành đâu cần cứu, mà cứu là phải cứu
người có tội. Do đó, đối với
chúng ta, tình thương đã hiển hiện như
một nét nổi bật của Chúa. Tình
thương của Chúa không phải là một tình cảm
mờ nhạt, mong manh mà là cả một tâm hồn say mê
nóng bỏng. Lòng say mê đó là tình yêu đã đến
cảm mến cảnh cùng khổ của chúng ta và
để nâng cảnh cùng khổ đó lên. Tình
thương của một Thiên Chúa làm người khôn
lường và da diết. Tình thương đó không
phải là một đức tính phụ thuộc nơi
bản thân Người, nhưng là một nét chính yếu,
đặc biệt: chính vì đó mà Ngài đã đến. Tội lỗi của chúng ta nếu
được đưa vào ngọn lửa nóng bỏng yêu
thương này sẽ bị thiêu hủy ngay.
Vậy nếu chúng ta có xa cách Ngài thì
không phải vì chúng ta khốn cùng mà chính vì chúng ta đã không
dâng lên cho Ngài sự khốn cùng đó. Chúng ta đã
chẳng dâng lên cho Ngài sự khốn cùng hoặc vì chúng ta
còn quá ham cái cái cảnh cùng khốn, hoặc vì chúng ta
nghĩ rằng tình thương xót của Ngài quá nhỏ bé
so với tội lỗi tầy trời của chúng ta.
Nhưng nếu chúng ta thực sự dâng lên cho Ngài sự
khốn cùng đó, thì Ngài đã vồ lấy con
người tội lỗi chúng ta mau lẹ hơn cả chim
phượng hoàng vồ lấy con mồi. Khi
ấy, dầu tội lỗi của chúng ta có thắm
đỏ bao nhiêu, Ngài cũng sẽ biến nó trắng tinh
như tuyết.
Chúng ta nghĩ sao đây? Chúng ta sẽ
được liệt vào hạng người Pharisêu, kinh
sư hay vào hạng những người tội lỗi,
những người thu thuế? Chúng ta
tự nhận mình là người công chính hay người
tội lỗi? Chắc chắn không ai dám cho mình là trong sạch,
vô tội trước mặt Chúa, bởi vì từ ngày có trí
khôn cho đến nay, biết bao nhiêu
lần chúng ta đã không giữ trọn 10 điều
răn của Chúa. Bao nhiêu lần chúng ta đã chịu thua
cám dỗ và sa ngã. Bao nhiêu lần lời
ăn tiếng nói của chúng ta là những lời hành
tỏi, xét đoán, gièm pha, kết án hay
là những lời hư từ vô ích. Bao nhiêu lần chúng ta
đã ghen ghét, oán thù, tranh chấp… Có lẽ chúng ta không
chịu bới đống rác tội lỗi của chúng ta
ra thôi, chứ thiếu gì những lý do để chúng ta
phải ăn năn thống hối.
Chúng ta phải thành thật nhận mình là tội nhân
đáng hình phạt như người trộm lành; chúng ta
là đứa con hoang đàng trở về, là Mađalêna
thống hối, là Phaolô bị quật ngã, là Âu Tinh cần
đổi mới. Kinh Kính mừng, Thương xót, An năn tội, Chiên Thiên Chúa… dạy cho chúng
ta biết chúng ta chỉ là tội nhân, là kẻ bại
trận, chỉ trông hòng vào lòng Chúa thương xót mà thôi.
Mong sao tự thâm tâm chúng ta luôn vọng lên lời
tự thú của người thu thuế lên đền
thờ cầu nguyện: “Lạy Chúa, con là kẻ tội
lỗi”. Và rồi chúng ta cũng hãy trào ra những giọt
lệ sung sướng như Tin Mừng đã kể. Không cần phải có những giọt lệ trào
ra từ khóe mắt, nhưng là những dòng lệ âm
thầm chảy tự trong lòng. Những bước
chân trở về và hoán cải thường gọi là
niềm ân hận, âm thầm đau
đớn về những lầm lỡ đã qua, đó là
con tim tan vỡ, hay nói giản dị hơn, là lòng ăn
năn hối cải. Tấm lòng ăn
năn đó đôi khi được bộc lộ
bằng những dòng lệ chảy ra từ khóe mắt,
đó là những dòng lệ thấy được từ
bên ngoài, nhưng quí hóa hơn, âm thầm sâu kín hơn
vẫn là những dòng lệ đau đớn của con
tim. Ước mong đó là những dòng lệ
của chúng ta. Lạy Chúa, xin đừng chê bỏ
con, xin nhận lấy tấm lòng con: tấm lòng tan nát khiêm
cung.
|