Ai là con thực
sự? Ai là người làm công?
(Suy niệm của Lm Giuse Lê Minh Thông)
Dụ ngôn
người cha nhân hậu và hai người con.
Tìm hiểu Lc 15,1-3.11-32
Nội dung
Dẫn nhập
1.
Đức Giêsu kể dụ ngôn cho ai và để làm gì?
2. Vị
trí của ba dụ ngôn
3. “Con
thứ đi hoang” xin được coi như
“người làm công”
4. “Con cả ở nhà” sống như
“người làm công”
5. Áp dụng dụ ngôn vào nhân vật trong
trình thuật
6. Áp dụng dụ ngôn cho độc giả
Kết luận
Dẫn nhập
Đoạn Tin Mừng Lc 15,1-3.11-32 đã
từng được gọi là dụ ngôn đứa con
hoang đàng. Nhưng bản văn đề cao quyết
định quay trở về của người con này
hơn là sự hoang đàng của anh ta. Hiện nay
người ta thường gọi là dụ ngôn
người cha nhân hậu, nhưng có lẽ bản văn
nhấn mạnh hơn đến sự không nhân hậu
của người con cả, là người đã trách cha
và miệt thị em mình. Có thể dụ ngôn trên đây có ý
nghĩa rất phong phú liên quan đến cách sống và cách
xử sự của cả ba nhân vật: Người cha và
hai người con. Dường như nhân vật nổi
bật của dụ ngôn là người anh cả. Bởi
vì trong câu chuyện, những nhân vật đang nghe
Đức Giêsu kể dụ ngôn có cách sống và cách xử
sự giống như người con cả.
Sự phong phú về ý nghĩa của bản
văn làm cho việc đặt một tựa đề
thường là rất khó. Một câu chuyện mô tả ba
cách nhìn cuộc đời khác nhau của ba nhân vật thì
không thể tóm tắt chỉ trong dăm ba chữ. Có
lẽ nên tìm hiểu ý nghĩa của dụ ngôn này trong
bối cảnh văn chương của nó, để
từ đó có thể thưởng thức, lắng nghe và
sống với dụ ngôn hơn là loay hoay tìm cách
đặt một tựa đề.
1. Đức Giêsu kể dụ ngôn cho ai và để
làm gì?
Tin Mừng Lu-ca chương 15 được
gọi là các dụ ngôn về lòng thương xót,
chương này gồm một lời mở đầu và
ba dụ ngôn. Lời mở đầu có tầm quan
trọng đặc biệt, vì đó là chìa khoá để
hiểu Đức Giêsu nói dụ ngôn trong bối cảnh
nào, có ẩn ý gì và nói cho ai. Người thuật chuyện
cho biết bối cảnh và lý do Đức Giêsu kể các
dụ ngôn ở Lc 15,1-3: “1Các người thu thuế và các
người tội lỗi đều lui tới với
Đức Giêsu để nghe Người giảng.
2Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì
với nhau: ‘Ông này đón tiếp phường tội
lỗi và ăn uống với chúng.’ 3Đức Giêsu
mới kể cho họ dụ ngôn này:…”
Lc 15,1-3 cho biết nhiều chi tiết liên
quan đến lý do Đức Giêsu kể các dụ ngôn.
Trước hết là những người thu thuế và
những người tội lỗi đến với
Đức Giêsu để nghe Người giảng.
Tiếp đến là lời xầm xì của những
người Pharisêu và các kinh sư: “Ông này đón tiếp
phường tội lỗi và ăn uống với chúng.”
Lời xầm xì này cho biết thêm hai yếu tố
mới. Không chỉ là việc những người thu
thuế và tội lỗi đến với Đức Giêsu
và nghe Người giảng, mà chính Đức Giêsu tiếp
đón họ và ăn uống với họ. Nghĩa là
sự đón nhận đến từ hai phía. Về phía
Đức Giêsu, Người tiếp đón và ăn
uống với những người thu thuế và tội lỗi.
Về phía họ, họ đến với Đức Giêsu
để nghe Người giảng.
Trong bối cảnh trên, “Đức Giêsu
kể cho họ dụ ngôn:…”. “Họ” – thính giả nghe các dụ
ngôn trong bản văn – chính là những người Pharisêu
và các kinh sư. Có thể hiểu thêm là có cả những
người thu thuế và những người tội
lỗi nữa, vì bản văn nói về họ. Như
thế, mục đích việc Đức Giêsu kể
dụ ngôn là để giải thích và trả lời cho câu
hỏi đặt ra: Tại sao Đức Giêsu và những
người thu thuế và tội lỗi lại đến
với nhau? Đây là điều mà những người
Pharisêu và các kinh sư cho là chướng tai gai mắt, nên
dẫn đến việc xầm xì. Đồng thời,
dụ ngôn cũng cho biết thực chất về cách
cư xử của họ.
Ngày nay, nhân vật “họ” là bất kỳ ai
đọc bản văn. Thực vậy, độc
giả mới là thính giả đích thực của câu
chuyện, vì bản văn được viết ra cho họ.
Độc giả trực tiếp là cộng đoàn Lu-ca
cuối thế kỷ I, tiếp đến là độc
giả qua mọi thời đại, với tư cách là
người đọc bản văn. Vậy, dụ ngôn
này có ý nghĩa gì cho độc giả? Câu chuyện này nói
gì với độc giả là tất cả chúng ta ngày nay?
2. Vị trí của ba dụ ngôn
Trong Lc 15, Đức Giêsu kể ba dụ ngôn,
trong đó, hai dụ ngôn đầu tiên rất ngắn, nói
về con chiên đi lạc (Lc 15,4-7) và đồng bạc
bị đánh mất (Lc 15,8-10). Hai dụ ngôn này diễn
tả tấm lòng của Thiên Chúa dành cho những
người lạc lối, qua hình ảnh người
mục tử đi tìm cho bằng được chiên
lạc và người phụ nữ tìm cho bằng
được đồng tiền bị mất.
Điều hai dụ ngôn này nhấn mạnh là chính Thiên Chúa
đi bước trước để tìm kiếm
những gì đã mất. Áp dụng vào bối cảnh câu
chuyện thì hai dụ ngôn đầu tiên muốn ám chỉ
Đức Giêsu, Người đến để tìm
kiếm những con chiên lạc, tìm kiếm những gì
đã mất. Cụ thể là Người đến
với những người thu thuế và tội lỗi
để dẫn họ trở về với Thiên Chúa.
Dụ ngôn thứ ba, tạm gọi là dụ
ngôn người cha nhân hậu, dài hơn và ý nghĩa phong
phú hơn. Dụ ngôn thứ ba này bổ túc thêm những gì
hai dụ ngôn trước chưa diễn tả
được. Điểm mới trong dụ ngôn này là
chính “con chiên lạc” tự tìm đường trở
về với người mục tử, qua việc
đứa con hoang đàng quyết định trở
về với cha của mình, chứ người cha không
đi tìm. Như thế, thay vì đi tìm chiên, đi tìm
đồng bạc như trong hai dụ ngôn trước,
thì dụ ngôn thứ ba trình bày hoàn cảnh và tâm tư
của những người đi lạc. Đi lạc
theo cả hai nghĩa: Bỏ nhà đi hoang (người con
thứ) và đi lạc ngay tại nhà mình (người con
cả), anh ta ở nhà mà sống như người làm công.
Tóm lại, hai dụ ngôn đầu giải
thích tại sao Đức Giêsu tiếp đón và ăn
uống với phường tội lỗi, dụ ngôn
thứ ba giải thích hành động tích cực của
những người thu thuế và những người
tội lỗi: Họ đến với Đức Giêsu và
nghe Người giảng. Dụ ngôn thứ ba còn cho
biết thái độ của người cha và đề
cao sự tự do của hai người con trong sự
lựa chọn của mình.
3. “Con thứ đi hoang” xin được coi như
“người làm công”
Người con thứ tự quyết
định ra đi và tự quyết định trở
về sau khi học được bài học quý giá từ
cuộc sống. Người cha không ngăn cản con mình
ra đi. Đó là cách tốt để người cha
huấn luyện con mình có trách nhiệm với lựa
chọn của mình. Như thế, nhận ra mình đã
lạc đường và can đảm quyết
định quay trở về là một bước tiến
lớn trong sự trưởng thành nhân cách. Anh ta đã
đi một bước dài trong tiến trình tự đào
tạo bản thân. Điều anh ta tự nhủ đáng
cho người đọc qua mọi thời đại
học hỏi: “17Biết bao nhiêu người làm công cho cha
ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở
đây lại chết đói! 18Thôi, ta đứng lên, đi
về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha, con
thật đắc tội với Trời và với cha,
19chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con
như một người làm công cho cha vậy.’ 20Thế
rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha” (15,17-20).
Hoàn cảnh sống và quyết định
của người con thứ là lời mời gọi
độc giả hãy học lấy từ cuộc
sống, từ những thất bại, những bài
học quý giá để làm cho mình trưởng thành hơn.
Nhờ học trường đời mà người con
thứ đã can đảm làm lại cuộc đời và
biết lấy quyết định đúng đắn,
không mặc cảm tự ti hay tự tôn, cũng không
sợ mất thể diện.
4. “Con cả ở nhà” sống như “người làm
công”
Nhân vật phản diện của dụ ngôn
người cha nhân hậu là “người con cả”. Thái
độ và cách xử sự của anh ta ám chỉ thái
độ của những người Pharisêu và các kinh
sư. Lời xầm xì giữa họ với nhau
được đặt song song với lời
người con cả trách cha mình và nhục mạ em mình:
“29Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha,
và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ
cha cho lấy được một con dê con để con
ăn mừng với bạn bè. 30Còn thằng con của cha
đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha
với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại
giết bê béo ăn mừng” (Lc 15,29-30). Lời trách móc cha
(ám chỉ Đức Giêsu trong lời xầm xì ở 15,2)
và lời chối bỏ em mình (ám chỉ những
người thu thuế và tội lỗi ở 15,1-2) cho thấy
người con cả đã không sống “tư cách làm con”
và “tư cách làm anh” trong gia đình. Những người
Pharisêu và các kinh sư cũng đang xử sự như
người con cả.
Không sống và cư xử như một
người con, không đứng ở địa vị con
cái, người con cả suy nghĩ và hành động
như một đứa ở trong nhà. Từ trước
đến bây giờ anh ta không biết đến
điều cha anh nói: “Con à, lúc nào con cũng ở với
cha, tất cả những gì của cha đều là
của con” (Lc 15,31).
Người con cả cũng không sống
tư cách làm anh vì đã không đón nhận sự trở
về của em mình. Anh ta đã phủ nhận tư cách
làm anh và hạ thấp em mình khi nói: “Thằng con của cha
đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha
với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại
giết bê béo ăn mừng” (15,30). Đó là “thằng con
của cha” chứ không phải là “đứa em của con”,
một đứa em đáng quý trọng vì đã biết
ăn năn hối cải trở về.
Điều trớ trêu và châm biếm trong
bản văn là tương phản giữa hai
người con: Người con thứ quay trở về
chỉ xin được cha xem là “người làm công”, vì
nghĩ rằng mình không xứng đáng “làm con”, thì
người con thứ lại được hưởng
trọn vẹn quyền “làm con” qua các biểu tượng:
Mặc áo đẹp, đeo nhẫn, đi dép và dự
tiệc mừng (15,22-23). Ngược lại người
anh cả tự cho mình là “người con gương
mẫu”, đã có công “hầu hạ” cha trong nhiều năm, anh ta
lại sống và suy nghĩ “như người làm công”,
“như người làm thuê”, “như đứa ở” chứ
không phải là “người con thực sự”.
Tình trạng của người con cả
trầm trọng hơn nhiều so với việc bỏ
nhà đi hoang của người con thứ. Bởi vì
người con cả ở nhà với cha nhưng không
sống tư cách làm con mà anh ta lại không biết
điều ấy, nghĩa là vẫn nghĩ mình là
đứa con ngoan và hiếu thảo.
5. Áp dụng dụ ngôn vào nhân vật trong trình
thuật
Người con cả tưởng mình là con
cái trong nhà, nhưng thực ra là không phải. Cũng
vậy, những người Pharisêu và các kinh sư
tưởng mình thuộc về Thiên Chúa, làm công việc
của Thiên Chúa, phục vụ Thiên Chúa, nhưng thực
sự không phải. Họ đang đi ngược
lại ý định của Thiên Chúa khi chống lại
Đức Giêsu.
Sự tương phản giữa các nhân
vật: “con cả – con thứ”, “những người
Pharisêu và các kinh sư – những người thu thuế và
những người tội lỗi” song song với nhau. Bên
ngoài, người con cả ở nhà là đứa con ngoan,
chăm lo hầu hạ cha nhưng thực chất bên trong
anh ta là đứa ở. Bên ngoài, người con thứ
bỏ nhà đi hoang, không nhận ra lòng thương xót
của cha, nhưng tự trong lòng, anh đã biết hối
cải quay về. Như thế người con đi hoang
trở về mới là “người con đích thực”.
Mạch văn cho phép hiểu: Những người thu
thuế và những người tội lỗi sám hối
trở về với Thiên Chúa mới thực sự là con
cái Thiên Chúa. Còn những người Pharisêu và các kinh sư
là những người làm thuê.
Liệu những người Pharisêu có hiểu
và có nhận ra sự trớ trêu này qua dụ ngôn không?
Bản văn không cho độc giả biết, vì dụ
ngôn kết cách đột ngột với lời dạy
của người cha: “31Con à, lúc nào con cũng ở
với cha, tất cả những gì của cha đều
là của con. 32Nhưng chúng ta phải ăn mừng,
phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại
sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (15,31-32).
Dụ ngôn kết dở dang ở đây để lại
nhiều câu hỏi: Người anh cả phản ứng
thế nào trước lời dạy của cha mình?
Liệu lời giáo huấn này có làm người con cả
thay đổi lập trường để biến
tức giận thành niềm vui và trở lại làm con cái
trong nhà hay không? Liệu người anh có đổi cách suy
nghĩ của người nô lệ để sống và ứng
xử với cha với tư cách là con và đón nhận em
mình với tư cách là anh hay không?
Khi áp dụng dụ ngôn cho những
người Pharisêu và các kinh sư, độc giả
biết câu trả lời cho những câu hỏi trên là
“KHÔNG”, bằng chứng là trong phần tiếp của Tin
Mừng, những người Pharisêu và các kinh sư đã
đeo đuổi cho đến cùng việc chống
đối Đức Giêsu và họ đã góp phần vào
việc giết chết Đức Giêsu trên thập giá.
6. Áp dụng dụ ngôn cho độc giả
Những điều trên đây là diễn
tiến trình thuật trong Tin Mừng, điều quan
trọng mà bản văn nhắm tới là quyết
định của độc giả, vì bản văn
được viết ra cho độc giả. Ở
đây là độc giả của cộng đoàn Luca
cuối thế kỷ I và cũng độc giả qua
mọi thời đại. Độc giả nghĩ gì và
quyết định thế nào sau khi đọc trình
thuật. Thiết nghĩ độc giả có thể rút ra
ba bài học từ câu chuyện:
1) Bài học
nơi người con thứ. Dám quyết định,
dám ra đi, dám sống hết mình, dám nhìn nhận sự
thật về mình, dám nhận trách nhiệm về sự
lựa chọn của mình. Đáng phục hơn cả là
dám đứng lên, dám làm lại cuộc đời, dám quay
lưng lại với quá khứ, dám hối cải và
trở về để sống trọn vẹn tư cách
làm con trong tình yêu thương của cha mình. Trong trình
thuật, việc những người thu thế và tội
lỗi “đến với Đức Giêsu và nghe
Người giảng” (15,1) được ví như là
người con thứ đã can đảm hối cải
trở về. Vậy, độc giả đang ở giai
đoạn nào trong hành trình tìm kiếm của người
con thứ?
2) Bài học
từ người anh cả. Có bao giờ chúng ta nghĩ
mình là “con cái trong nhà” mà thực sự đang sống
như “người làm công” hay không? Trong tương quan
với anh chị em mình, làm thế nào để đón nhận
và cùng chia sẻ trách nhiệm với anh chị em mình
chứ không dùng kiểu nói của người con cả:
“Thằng con của cha đó”. Liệu lời dạy
của người cha có làm cho độc giả nhận
ra sự thật trong tương quan với Cha trên trời
và với anh chị em mình không?
3) Bài học
nơi cách xử sự của người cha. Có
nhiều điều để học hỏi nơi
người cha về cách giải quyết những vấn
đề phức tạp và tế nhị trong cuộc sống. Có thể
nói, khởi đầu dụ ngôn, người cha có hai
người con, nhưng trong thực tế lại không có
đứa con nào cả. Một đứa thì đi hoang,
một đứa thì sống ở nhà với cha nhưng
lại sống như một người làm công chứ
không phải là con. Làm thế nào để vừa tôn
trọng tự do của đứa con muốn ra đi,
vừa biết chỉ dạy cho đứa con ở
lại về cách thức làm con? Bản văn mời
gọi các bậc cha mẹ – cũng như những
người có trách nhiệm trên người khác – biết
áp dụng cách giáo dục của người cha: Dùng tình
thương để cảm hoá và tôn trọng sự
tự do để giáo dục sự tự do. Nhờ
đó con người có khả năng lấy những
quyết định đúng đắn cho mình.
Cả ba bài học trên được trao vào
tay người đọc là tất cả chúng ta. Câu
chuyện vẫn chỉ là câu chuyện, dụ ngôn vẫn
mãi mãi là dụ ngôn. Bản văn luôn là những gợi ý,
những đề nghị chứ không trả lời thay
cho chúng ta.
Kết luận
Trình thuật mở đầu (Lc 15,1-3) và
dụ ngôn người cha nhân hậu với hai
người con (Lc 15,11-32) vẽ lên một bức tranh
với nhiều màu sắc mạnh mẽ có khả năng
dẫn người đọc đến suy tư và
nhận ra chính mình trong các nhân vật ấy.
Phần mở đầu (15,1-3) và phần
dụ ngôn (15,11-32) soi sáng cho nhau và nối kết chặt
chẽ với nhau. Đứa con hoang đàng sám hối
trở về là hình ảnh của những người thu
thuế và những người tội lỗi đến
với Đức Giêsu và nghe Người giảng dạy.
Cách xử sự của người con cả là hình
ảnh của những người Pharisêu và các kinh sư.
Họ tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa, nhưng khi
chống đối và bách hại Đức Giêsu, họ
đã lạc đường và không sống tư cách làm
con Thiên Chúa nữa. Tất cả những tình tiết trong
toàn bộ trình thuật được gửi đến
độc giả như một lời mời gọi
độc giả đọc ra được ý nghĩa
của câu chuyện.
Ước mong độc giả
thưởng thức được những chi tiết
độc đáo trong bản văn, với những nét
đẹp, nét tương phản, nét châm biếm, cùng
với những lời trách móc và sự hiểu lầm
của các nhân vật… Nhờ việc sống với
bản văn và suy niệm dụ ngôn, người
đọc sẽ được biến đổi
để dần dần sống trọn vẹn tư cách
làm con và xây dựng tình anh em nhờ sự hối cải và
trở về với Tình Yêu đích thực của Cha trên
trời.
|