Nét đẹp lời cầu xin
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn
Nghĩa)
Một thực tế trong đời Kitô
hữu đó là hễ cầu nguyện thì không thể không
cầu xin. Hễ nói đến cầu nguyện là
người ta nghĩ ngay đến những ơn cần
cầu xin. Có lẽ vì cuộc sống con người
lắm gian truân và đầy dẫy những bất an, gian
khổ, bên cạnh đó thì khát vọng cũng như nhu
cầu của con người thì dường như vô
tận. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ một chút thì việc
cầu xin cũng là một cách thế cầu nguyện mang
tính hiện sinh. Dù rằng theo cái nhìn tu đức
truyền thống thì khi cầu nguyện, việc cầu
xin xem ra không bằng việc tạ ơn, ngợi khen hay
chúc tụng Thiên Chúa.
Lần kia một môn đệ nói với Chúa
Giêsu: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện,
cũng như ông Gioan đã dạy các môn đệ của
ông”. Và Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: “Khi cầu
nguyện, anh em hãy nói: “Lạy Cha, xin làm cho thánh danh Cha vinh
hiển…; xin tha tội cho chúng con…” (x. Lc 11,1-4). Tin mừng
Matthêu cũng tường thuật việc Chúa Giêsu dạy
cầu nguyện với “Kinh Lạy Cha” bằng những
lời cầu xin (x. Mt 6,9-13). Qua những lời cầu xin
chúng ta nhận ra một vài tâm tình vừa chính đáng
vừa phải đạo và cũng vừa rất “dễ
thương” như sau:
1. Tâm tình tin tưởng, cậy trông vào tình yêu và
quyền năng của Đấng chúng ta cầu xin:
Đã cất lời cầu xin với ai, thì dĩ nhiên ít
nhiều đã có sự tin tưởng và cậy trông vào
người ấy. Xin với ai điều gì, thì giả
thiết đã tin tưởng người ấy có khả
năng thực hiện điều chúng ta xin. Xin
điều gì với ai là giả thiết đã cậy
trông vào tình yêu của người ấy dành cho mình.
Dưới một góc độ nào đó, thì lời
cầu xin cũng là một lời tuyên xưng đức
tin.
2. Tâm tình thống hối, ăn năn: Nếu
điều cầu xin là ơn tha thứ thì người
cầu xin không chỉ bày tỏ lòng tin vào sự khoan dung
của người mình xin mà còn bày tỏ sự ăn
năn thống hối về lỗi lầm mình đã
phạm. Theo cái nhìn này thì lời cầu xin cũng là
lời xưng thú tội lỗi.
3. Tâm tình khiêm hạ nhìn nhận sự hạn
chế, bất toàn và cả bất lực của mình:
“Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày. Xin
chớ để chúng con sa chước cám dỗ…” (x. Lc
11,3-4; Mt 6,11.13). Nội hàm những lời cầu xin trên
đây quả là một lời thú nhận sự bất
toàn, bất lực của người xin. Không có ơn Chúa
thì chúng ta không thể làm được sự gì tốt
đẹp. Nếu Chúa không nâng đỡ, thì chúng ta không
thể đứng vững trước mãnh lực của
thần dữ, như “sư tử luôn rảo quanh chúng ta
để rình chờ cắn xé, phân thây” (x.1P5,8).
4. Tâm tình thảo hiếu: “Nguyện cho danh Cha
cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể
hiện dưới đất cũng như trên
trời”(x.Mt 6,9-10; Lc 11,1). Một người con biết
nghĩ đến Danh, Vương quyền, Ý, Lời
của Cha là một người con sống đạo
thảo hiếu đúng phận.
5. Sự liên đới, tương thân tương
ái trong nghĩa tình huynh đệ: Chúng ta nhận ra
sự thật này qua hai từ “chúng con” của lời kinh
“Lạy Cha”. Hơn nữa, khi đã tuyên xưng, nhìn
nhận Thiên Chúa là Cha, thì một cách nào đó đã nhìn
nhận tha nhân là anh chị em của mình. Sự
tương thân tương ái được biểu
hiện cách rõ nét và thiết thực bằng sự liên
đới.
Câu chuyện Abraham cò kè bớt một thêm hai
để xin Thiên Chúa tha thứ cho dân hai thành Sôđôma và
Gômôra là một minh hoạ. Lòng hiếu thảo luôn sánh
đôi với nghĩa tình huynh đệ. Một
người sống có tình với mẹ cha, thì hẳn luôn
có lòng với anh chị em. Cũng thế, khi đã biết
sống có tình với huynh đệ thì luôn làm đẹp
lòng mẹ cha. Và các đấng bậc sinh thành vốn
nhận tình nghĩa huynh đệ của đàn con như
là một trong những cách thế đẹp nhất mà
đàn con bày tỏ lòng thảo hiếu với mình. Chúng ta
nhận ra sự thật này khi cha ông chúng ta đã gắn
kết hai mối tình ấy bằng hạn từ ghép “tình
hiếu đễ”.
Mối tình của Abraham dành cho dân hai thành
Sôđôma và Gômôra một cách nào đó còn bị giới
hạn. Dù rằng đã dùng hết cách để có kè
bớt dần con số người công chính để xin
Thiên Chúa thứ tha cho dân hai thành ấy, thì Abraham đã không
vượt qua con số “mười”. Điều này cho chúng
ta thấy rằng mặc dù tình thân của Abraham
đối với Thiên Chúa thật đậm đà,
nhưng vẫn còn bị hạn chế cách nào đó vì
sự mạc khải thời Cựu ước chưa
hoàn hảo. Chắc hẳn Abraham luôn mong ước
được thấy ngày của Con Người, ngày mà
chân lý được tỏ bày cách hoàn hảo nơi Giêsu
Kitô (x.Ga 8,56). Giả như ông chứng kiến ngày ấy
thì ông đã bớt dần con số xuống chỉ còn
một người công chính. Quả vậy, “cũng như
vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi
người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một
người duy nhất đã thực hiện lẽ công
chính, mọi người cũng đã được Thiên
Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống” (Rm
5,18).
Tuy nhiên, có thể nói rằng cầu xin không
phải là để Thiên Chúa biết các nhu cầu của
chúng ta, vì chính Người đã biết rõ những gì chúng
ta cần trước khi chúng ta cất lời khẩn xin
(x.Mt 6,8). Và dĩ nhiên, đã là người Cha trên các
người cha, thì Thiên Chúa sẵn sàng ban mọi sự
tốt lành cho chúng ta. Và cần phải khẳng định
rằng nội hàm những lời cầu xin là để
giúp chúng ta nhận biết những gì chúng ta cần, và
để chúng ta sẵn sàng đón nhận cũng như
sẵn sàng thực thi Thánh Ý.
“Xin cho danh Cha cả sáng”. Chúng ta không xin thì
trời xanh vẫn phản ánh vinh quang của Người.
Chúng ta xin là để biết cách cộng tác với ơn
Chúa làm cho Thánh danh Người tỏ rạng nơi cuộc
đời con người chúng ta. “Xin Cha tha nợ cho chúng
con”. Chúng ta chưa xin thì Đức Kitô đã chết
để ban ơn tha thứ cho chúng ta ngay khi chúng ta còn là
kẻ phản nghịch. Cầu xin là để biết
cách thế đón nhận hồng ân tha thứ Chúa đã
tặng ban. Một trong những cách thế để
đón nhận hồng ân thứ tha của Thiên Chúa đó là
quảng đại tha thứ cho tha nhân (x.Mt 6,14-15).
Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên
để tiếp xúc, gặp gỡ Thiên Chúa. Tiếp xúc,
gặp gỡ Chúa để biết Chúa, yêu mến Chúa và
để thực hiện thánh ý của Người.
Như thế, cầu nguyện, cầu xin không phải là
để bắt Thiên Chúa thực hiện điều chúng
ta muốn, nhưng là để bắt chính mình thực thi
điều Thiên Chúa muốn. Vấn đề đặt
ra đó là cần phải biết cầu xin những gì
đẹp ý Chúa. Một trong những điều
đẹp ý Chúa nhất đó là tôi và mọi người
cùng được hưởng ơn cứu độ,
được hưởng hạnh phúc ngay hôm nay và ngày sau.
|