Yêu
thương là cốt tuỷ của Luật Thiên Chúa --- Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Yêu Chúa và yêu người, cái nào quan
trọng hơn? Đặt vấn đề như thế
có đúng đắn không? Có thể tách hai tình yêu ấy
thành biệt lập với nhau không?
2. Tinh thần yêu thương của
Đức Giêsu khác với tinh thần của Cựu
Ước thế nào? Có gì mới mẻ hơn so với
Cựu Ước?
3. Xét câu hỏi của Đức Giêsu:
«Trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người
thân cận với người đã bị rơi vào tay
kẻ cướp?», bạn nghĩ gì
về về câu hỏi ấy? Tại sao lại «ai tỏ
ra là người thân cận», chứ không nói «ai là
người thân cận»?
Suy tư gợi ý:
1. Yêu
thương là cốt tuỷ của
Luật Thiên Chúa
Lề luật vốn có rất
nhiều điều luật, mỗi điều luật
lại có một số khoản luật, làm sao giữ
luật cho trọn vẹn để trở nên công chính? Muốn thế, phải
nắm được cốt tuỷ
của lề luật. Bài Tin Mừng hôm
nay cho thấy cốt tuỷ của lề
luật là lòng yêu thương. Theo Cựu Ước –
được thầy thông luật trưng dẫn trong bài
Tin Mừng hôm nay – thì có hai đối tượng của
lòng yêu thương: một là Thiên Chúa, hai là người
thân cận. Nhưng trong Tân Ước, đặc biệt
trong các thư của Phaolô và Gioan, thì hai đối
tượng ấy được tổng hợp lại
thành một thực tại duy nhất có hai mặt,
tương tự như một tờ giấy duy nhất
có hai trang gắn liền nhau không thể tách rời. Yêu Chúa và yêu người là hai mặt của
một tình yêu duy nhất. Do đó, yêu Chúa đích
thực tất nhiên phải yêu người, «ai nói mình yêu
Chúa mà không yêu người là kẻ nói dối» (1 Ga 4, 20).
Thánh Phaolô tóm cả lề luật vào một mối duy
nhất là yêu người: «Tất cả lề luật
được tóm gọn trong một điều này: Hãy yêu
người lân cận như chính mình» (Gl 5, 14), vì yêu
người đích thực thì đã bao hàm yêu Chúa trong
đó rồi. Nói khác đi, yêu người chính là yêu Chúa,
miễn sao tình yêu đó là đích thực, nghĩa là vô
vị lợi: yêu người, hy sinh cho người không vì
một lợi lộc nào cả, thậm chí không phải
để được Thiên Chúa thưởng. Nếu yêu
người là để được Thiên Chúa
thưởng mình, hay vì một lợi lộc khác của
mình thì suy cho cùng hoá ra đó là mình tự yêu
bản thân mình chứ đâu phải mình yêu người.
Yêu kiểu ấy là một hình thức vị kỷ,
chứ đâu phải là tình yêu!
2. Yêu
thương là giữ trọn lề luật (x. Gl 6,2)
Chúng
ta đang sống thời Tân Ước, vì thế chúng ta
không nên sống theo tinh thần của Cựu Ước.
Thời Cựu Ước, trình độ tâm linh của con
người còn sơ khai, thấp kém, nên tiêu chuẩn
để nên công chính vào thời đó là sống sao cho
đúng với lề luật. Càng giữ
đúng luật bao nhiêu thì càng công chính bấy nhiêu. Vì
thế, những người Pharisiêu là những
người hoàn chỉnh nhất theo tiêu
chuẩn này: họ cố giữ luật sao cho đúng
từng chi tiết, từng dấu phảy một. Tuy
họ giữ đúng lề luật tôn giáo từng ly
từng tý, đến nỗi có thể nói rằng khó có ai
giữ lề luật chi ly hơn họ, nhưng
Đức Giêsu đã nhận ra rằng trong lòng họ không
có tình yêu, trái lại chỉ có lòng ích kỷ. Nếu họ
có giúp đỡ ai, hy sinh cho ai, thì ý hướng khiến
họ làm điều ấy là vì lề luật khuyên hay
buộc như vậy, vì họ nghĩ: có làm như vậy
thì mới là người công chính, và mới được
Thiên Chúa ân thưởng. Họ giúp đỡ,
hy sinh cho người khác rất nhiều, mà lòng họ có
thể chẳng yêu thương người ấy bao nhiêu.
Họ làm mọi sự vì lề luật
đòi hỏi, chứ không phải tình yêu đòi hỏi.
Tới thời Đức Giêsu, Ngài
thấy Dân Chúa đã sống trong trình độ tâm linh
ấy cả ngàn năm rồi, bây giờ Ngài phải nâng
trình độ ấy lên.
Tiêu chuẩn để nên công chính bây giờ phải
được nâng cao hơn: không nên làm vì lề luật
buộc, mà vì tình yêu đối với tha nhân đòi
buộc và thúc đẩy. Vì thế, Ngài nói: «Nếu anh em
không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người
Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước
Trời» (Mt 5,20). Ý của
Ngài không phải muốn chúng ta giữ lề luật
nhiệm nhặt hơn người Pharisiêu, vì chẳng
mấy ai giữ luật tài hơn họ. Ngài muốn chúng ta công chính hơn họ ở
chỗ có tình yêu bên trong, và làm mọi sự vì yêu
thương chứ không phải vì lề luật buộc
phải làm như thế. Điều đó không có
nghĩa là Ngài đả phá lề luật, mà trái lại là
làm cho lề luật hay việc giữ luật nên hoàn
chỉnh hơn: giữ luật vì tình yêu, đưa tình yêu
vào trong lề luật. Một khi đã có tình yêu đích
thực, thì như thánh Âu-Tinh nói: «Cứ yêu đi rồi
muốn làm gì thì làm». Tình yêu sẽ cho ta
biết ta phải làm gì. Theo thánh Phaolô thì lề
luật không phải được lập nên cho
người có tình yêu, mà cho người không có tình yêu: «(9)
Lề Luật có đó, không phải cho người công
chính, mà là cho hạng người sống ngoài lề
luật và bất phục tùng, vô luân và tội lỗi,
phạm thánh phạm thượng, giết cha giết
mẹ, sát nhân, (10) dâm dật, kê gian, buôn người, nói
dối, bội thề, và những kẻ sống
ngược với giáo lý lành mạnh» (1 Tm 1,9-10).
Nếu
không có tình yêu, thì việc làm theo luật
có tốt đẹp đến đâu cũng vô giá trị.
Thánh Phaolô nói rất rõ: «Giả như tôi có đem hết
gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác
tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức
mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1 Cr 13,3).
Đem hết gia tài ra bố thí cho người nghèo là
một hành động có vẻ đầy yêu thương,
nhưng nó vẫn có thể phát xuất từ một
động lực hoàn toàn vị kỷ, chẳng có chút tình
thương nào: bố thí để mọi người
khen, nể phục, để được mang tiếng
là thương người, là đạo đức.
3. Hai thái
độ giữ luật trong dụ ngôn người Samari
tốt lành
Trong
dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy có hai thái
độ giữ luật:
-
Một là
của thầy tư tế và thầy Lêvi, tượng
trưng cho tinh thần vị luật của Cựu
Ước. Theo họ, trong lề luật, không có khoản
nào qui định cụ thể phải cứu giúp
người trong hoàn cảnh như thế này cả. Trái
lại, có những khoản qui định cụ thể
về sự sạch sẽ: «(Tư
tế lớn nhất trong hàng anh em) thì không được
đến gần người chết, và không
được làm cho mình ra ô uế, dù vì cha hay vì mẹ
mình» (Lv 21,11). Như vậy, nếu mình không cứu
người ấy thì mình chẳng lỗi luật, còn
nếu đụng đến người ấy mà lỡ
người ấy chết trên tay mình,
thì mình ra ô uế, không được tế lễ hay
ăn bánh thánh. Thái độ lãnh đạm của họ
đối với người bị nạn quả là có lý
vì họ nghĩ: điều quan trọng là làm theo Lề Luật, chứ không phải là làm
theo sự đòi hỏi của tình yêu. Vả lại,
Lề Luật nói: «Phải yêu người thân cận
như chính mình» (Lv 19,18), chứ phải
yêu bất cứ người nào đâu! Nếu có tình yêu thì
tình yêu ấy chỉ dành cho người lân cận, nghĩa
là sống gần mình mà thôi.
-
Hai là của
người Samari, tượng trưng cho những
người không sống theo Lề
Luật: trong họ, những người tốt thì
sống theo sự đòi hỏi của lương tâm
hơn là của lề luật thành văn. Do đó,
thấy người bị nạn thì người Samari
tốt lành này động lòng thương, lương tâm
và tình thương đồng loại đã thúc đẩy
anh ta cứu giúp người bị nạn đến
nơi đến chốn, bất chấp nạn nhân là
người Do Thái, thuộc dòng tộc có hiềm khích
với dòng tộc anh. Cách hành xử đầy yêu
thương của anh mới làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Đức
Giêsu đưa ra dụ ngôn này để trả lời cho
câu hỏi của anh chàng thông luật: «Nhưng ai là
người thân cận của tôi?». Theo
câu hỏi mà Đức Giêsu đưa ra sau dụ ngôn:
«Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã
tỏ ra là người thân cận với người
đã bị rơi vào tay kẻ cướp?»,
thì vấn đề không phải là ai là người thân
cận để mình yêu thương, mà là phải tỏ ra
mình là người thân cận với mọi người,
bằng cung cách xử sự đầy yêu thương
với họ. Kinh nghiệm tôi cho thấy: khi có ai tỏ
tình yêu thương tôi bằng những hy sinh cụ
thể, dù người ấy là người tôi chưa
hề quen biết hay ở xa tôi vạn dặm, thì hành động
yêu thương ấy làm cho người ấy và tôi
trở nên gần gũi nhau, thân mật với nhau. Tình yêu
thương và sự hy sinh ấy càng lớn thì sự
gần gũi ấy càng tăng lên,
thậm chí đi đến chỗ coi nhau như ruột
thịt. Trái lại, dù gần gũi, dù
là họ hàng, máu mủ, ruột thịt mà không yêu
thương nhau, thì lại trở nên như kẻ xa
lạ. Như vậy, theo tinh thần
của Đức Giêsu, chúng ta phải biến tha nhân thành
ruột thịt, thành gần gũi với mình bằng cách
cư xử đầy yêu thương với họ,
hơn là chọn lấy những người nào là ruột
thịt hay gần gũi với mình để yêu
thương.
Cầu nguyện
Lạy
Chúa, xin cho con một tình yêu đích thực, vị tha, làm
động lực thúc đẩy cho mọi hành
động của con. Cho con biết thật sự quên mình
được thể hiện bằng những hy sinh
cụ thể cho tha nhân, vì đó chính là dấu chứng của
tình yêu đích thực mà con cần có để nên công chính.
|